Thơ Lưu Trữ (Dòng Thơ Tiêu Biểu)

Dòng Thơ: Trần Văn Lương

Hãy Chụp Dùm Tôi
Đừng khoe tôi, hi người bn tài hoa,
Nh
ng tnh mang ra t địa ngc,
N
ơi bn mi v rong chơi hnh phúc,
Dù bao ng
ười vn ti nhc xót xa.
Đừng khoe tôi hình nh mt quê nhà,
Mà b
n nghĩ đang trêđà “đổi mi”,
Nh
ng thành th xưa hin như bông bưởi,
Nay b
ng dưng rã rượi nét giang h.
Đừng khoe tôi nhng cnh tượng xô b,
Nh
ng try lc gi vô phương cu cha.
Đất nướđã t lâu không khói la,
Sao r
c rài hơn c thu chiến chinh.
Đừng khoe tôi nhng yến tic linh đình,
Nh
ng ph xá ngp phn vinh gi to,
N
ơi thiu s tung tin như xác pháo,
Khi dân nghèo không mu
ng cháo cm hơi.
Đừng khoe tôi cnh t hăn chơi,
C
a nhng k đã mt thi chui nhi,
B
 tt c, trong đêm dài thui thi,
Ng
ược xuôi tìđường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi nhng con ph “bưng bin”,
Nh
ng qung cáo, nhng mt tin nham nh,
Nh
ng khách sánh đèn màu rc r,
Tr
ơ trn bày, d d khách phương xa.
Đừng khoe tôi chn th phượng nguy nga,
Nh
ng dinh th xa hoa nm choán ngõ,
Nh
ng màu sc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang un mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tônh Hà Ni hôm nay,
Thành ph
 đã chết t ngày tháng đó,
Khi b
 ép khoác lên màu c đỏ,
Khi tri
u người phi trn b vô Nam.
Đừng khoe tôi nhng cnh tượng giàu sang,
Đã được bn tóm càn vô ng kính,
Nh
ng hình nh mà k thù toan tính,
Mu
n tung ra để c phnh gt người.
Bn thâơi, sao không chp giùm tôi,
N
i thng kh ca triu người dân Vit,
N
a thế k trong ngc tù rên xiết,
Oán h
n kia du chết chng h tan.
Chp giùm tôđàn thiếu n Vit nam,
Thân tr
n tri xếp hàng ch được la,
Hay b
y tr mt chưa phai mùi sa,
B
 bán làm nô l  phương xa.
Chp giùm tôđôi mt m, mt cha,
Mà su
i l ch còn là máđỏ,
Khóc con cháu ra 
đi t năđó,
Bi
n dp vùi, đà tách ngõ u minh.
Chp giùm tôi s phn nhng thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trn,
Mà gi
 đâôm hn,
T
m thân tàn lđận gia phong ba.
Chp giùm tôi hình nh nhng c già,
B
đầu nu gom ra đường hành kht,
Để đêđến, np hết tin góp nht,
Đổi chén cơm dm nước mt nuôi thân.
Chp giùm tôi xác chết nhng ngư dân,
B
 Tàu giết bao ln trên bin rng,
Hay nh
ng chiếc quan tài chưa kđóng,
Ch
 cha, anh lao động Mã Lai v.
Chp giùm tôi thm cnh nhng dân quê,
Ch
đánh đập chán chê dù vô ti,
Hay c
nh nhng anh hùng không un gi,
Gánh 
đọđày trong ngc ti bao la.
Chp giùm tôi mc biên gii Vit Hoa,
L
n vàđất công cha để li,
Hay lãnh th
 cao nguyên còn hoang di,
L
ũ sài lang hèn nhát ly dâng Tàu.
Chp giùm tôi nhng nghĩđịa buđau,
Chúng tàn phá, ch
ng còđâu bia m.
K
 sng sóđã đành cam chu kh,
Ng
ười chết sao cũng khn khó trăđường.
Hãy chp giùm tôi hết nhng tang thương,
Hình 
nh tht mt quê hương bt hnh,
N
ơi mà bn, xưđêm trường gió lnh,
Đã căm hn quyết mnh dn ra khơi.
Chiếc thuyn con, ca nước lã cm hơi,
M
ng sng nh đem phơđầu sóng d.
R
i tha phương l th,
Tháng n
ăm dài, quá kh cũng dn phai.
Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng T
ư đến, có my ai còn nh!
Trần Văn Lương
Cali, đầu mùa Quốc Hận, 2010
Kính gửi đến quý anh con cóc cuối tuần.
Dạo:
Trách ai lỡ gọi thu về,
Lê thê sắc lá, não nề tiếng đêm.
Cóc cuối tuần:
Lỡ Gọi Thu Về
Rừng quen nếp cũ gọi thu về,
Rặng lá say màu đứng ủ ê.
Khói rách não nề ôm gió muộn,
Nắng già luộm thuộm quét đường quê.
Bóng vạc lê thê ngược bước chiều,
Nát lòng bỏ lại mái nhà xiêu.
Cố quận tiêu điều, cây đổi gốc,
Trằn trọc đêm mơ một bóng diều.
Dập dìu đất lạ ánh sao rơi,
Tóc trắng lơ ngơ chặng cuối đời.
Lếch thếch lưng đồi, trăng lấm bụi,
Sương ngàn lủi thủi bám ngày rơi.
Đốm lửa trên môi tắt vội vàng,
Nỗi buồn biệt xứ mãi mênh mang.
Lang thang gót giẫm màu hoa rụng,
Tiếc nuối chi chăng cũng lỡ làng.
Kiến vàng mất tổ lụy mo cau,
Quay quắt chia nhau một mảnh sầu.
Ngắm lá thay màu, tim quặn thắt,
Đêm dài siết chặt khối buồn nâu.
Phượng đỏ năm nao đã nhạt dần,
Đất người, hoa tím lót mềm chân.
Ngại ngần kỷ niệm tìm nơi ẩn,
Một trận Ngâu xưa tạnh mấy lần.
Âm thầm cánh nhạn trốn ra khơi,
Từng chuỗi hoàng hôn vắng tiếng cười.
Chim chết theo người, ai có biết,
Trên bờ ly biệt máu còn tươi.
Dăm bóng ma trơi nổi vật vờ,
Lời kinh đưa tiễn trổi vu vơ.
Nấm mồ đắp vội chờ nhang khói,
Le lói trong mây đốm nguyệt mờ.
Thẫn thờ thao thức đợi chiêm bao,
Chăn gối nhăn nheo cất tiếng gào.
Mộng ước nôn nao chèn giấc ngủ,
Đêm dài lệ đỏ, mắt xanh xao.
Quạ lẻ cây cao cất tiếng sầu,
Nghẹn ngào lá đáp lại từng câu.
Nhịp cầu sớm gãy ngày chia cách,
Lữ khách trăm năm lỡ chuyến tàu.
Dàu dàu cỏ dại ngóng sương sa,
Hiu hắt thôn khuya một tiếng gà.
Côi cút trăng tà soi giếng cạn,
Chim trời thiếu bạn ngại đường xa.
Biển động, hồn ma cũ nhấp nhô,
Ngậm ngùi quê mẹ biết nơi mô.
Thân cô, thế bạc, thôi đành mặc,
Dằng dặc bao năm chẳng nấm mồ.
Cây khô trần trụi đứng ê chề,
Nhìn xác lá vàng, tỉnh giấc mê.
Đêm tối rầm rì câu sám hối,
Ăn năn trót lỡ gọi thu về.
Trần Văn Lương
Cali, 10/2011
 
Buồm đêm chấp chới trên dòng,
Lênh đênh nào biết con sông mất còn.
Cóc cuối tuần: (Bài Xướng)
       ( )
月  縮  黑  江  蟠,
孤  帆  入  險  灘.
油  燈  推  薄  霧,
鐵  棹  禦  潛  瀾.
復  國  心  猶  痛,
歸  鄕  夢  已  寒.
春  風  還  未  到,
老  淚  浥  鹹  襌.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Giang Thượng Cô Chu
Nguyệt súc, hắc giang bàn,
Cô phàm nhập hiểm than.
Du đăng thôi bạc vụ,
Thiết trạo ngự tiềm lan.
Phục quốc tâm do thống,
Quy hương mộng dĩ hàn.
Xuân phong hoàn vị đáo,
Lão lệ ấp hàm đan.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Chiếc Thuyền Cô Độc Trên Sông
Trăng co rút, dòng sông đen cuộn khúc,  
Cánh buồm đơn độc đi vào ghềnh nước hiểm trở.
Ánh đèn dầu xua đẩy làn sương mù mỏng,
Mái chèo sắt chống cự con sóng ngầm.
Tấm lòng phục quốc vẫn còn đau,
(Nhưng) giấc mộng về quê đã nguội lạnh.
Gió Xuân vẫn còn chưa đến,
Nước mắt già thấm vào manh áo mặn.
Phỏng dịch thơ:    
Thuyền Côi Trên Sóng
Sông cuồn cuộn, ánh trăng thâu,
Gian nan ghềnh nước, thuyền câu bềnh bồng.
Sương mù lụy ánh đèn chong,
Sóng ngầm đưa đẩy, long đong tay chèo.
Con đường phục quốc gieo neo,
Mộng hồi hương đã nhạt theo mái đầu.
Gió Xuân ngóng mãi thêm sầu,
Lệ già thấm mảnh áo nâu mặn chằng.
Trần Văn Lương
Cali, 8/2012
Lời bàn của Phi Dã Thiền Sư :
Thuyền mãi bồng bềnh, gió Xuân chưa đến.
Thương thay đôi mắt già vẫn ngày đêm lệ tràn thấm áo.
Hỡi ơi !

Leave a Reply