Bài Xướng: (1) Giang san ba tỉnh hảy còn đây, Trời đất xui chi đến nỗi này ? Chớp nhoáng thẳng bom dây thép kéo, Mây tuôn đen kịt khói tàu bay. Xăng văng thầm tính, thương đòi chỗ, Khấp khởi riêng lo, biết những ngày. Miệng cọp hàm rồng, chưa dễ chọc, Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay !
Bài Họa: (1)
Hơn thua chưa biết đó cùng đây, Chẳng đã, nên ta mới thế này. Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy, Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay. Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa, Bủa lưới săn nai cũng có ngày. Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ, Lòng ta sắt đá há lung lay !
Bài Xướng: (2) Thày lai lại chuốc lấy danh nhơ, Ai mượn mình lo chuyện bá dơ. trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ, Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ. Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ, Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ. Rủi rủi may may đâu đã chắc , Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ !
Bài Họa: (2) Lung lay lòng sắt đã mang nhơ, Chẳng xét phận mình khéo nói vơ ! Người trí mảng lo danh chẳng chói, Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ. Bài hòa đã sẳn trong tay thợ, Việc đánh chưa thua giống cuộc cờ. Chưa trả thù nhà đền nợ nước, Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ !
Bài Xướng: (3) Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành, , Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình. Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa, Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh Hai bên vai gánh ba giềng nặng, Trăm tạ chuông treo một sợi mành. Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu, Thân còn chẳng kể, kể chi danh !
Bài Họa: (3)
Tai ngơ sao được lúc tan tành, Luống biết trách người chẳng trách mình. Ấy thế còn khoe danh đạo nghĩa, Như vầy cũng gọi cửa trâm anh, Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ, Chuông nặng to gan buột chỉ mành, Thân có, ắt tua danh phải có, Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Bài Xướng: (4)
Kể chi danh phận lúc tan hoang, hoang Biển rộng trời cao nghĩ lại càng, Lên núi bắt hùm chưa dể láo, Vào sông đánh cá, há rằng oan. Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc, Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng. Chiu chít thương bầy gà mất mẹ, Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang!
Bài Họa: (4)
Thanh danh chẳng kể, thiệt thằng hoang, Đốt sáp nên tro, lụy chẳng càn…. Hai cửa trâm anh xô sấp ngữa, Một nhà danh giáo, xáo tan hoang. Con buông khấp khởi chưa từng ngọc, Người khó xăng văng mới gặp vàng, Thương kẻ đồng văn nên mới nhắc, Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.
Bài Xướng: (5)
Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn, Múa mép khua môi cũng một phồn, Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện, Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn. Siêng lo há đợi cơm kề miệng, Chậm tính nào ngờ nước tới trôn. Hay dở chuyện đời còn lắm lối, Múa men xin hãy chớ bôn chôn.
Bài Họa: (5)
Khoe khoang việc phải mới rằng khôn. Kẻ vạy người ngay há một phồn ! Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ, Hùm như thất thế dễ thua chồn. Ngươi Nhan sá ngại dao kề lưỡi, Họ Khuất nào lo nước đến trôn. Tháy máy gặp thời ta sẽ động, Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.
Bài Xướng: (6)
Hảy chớ bôn chôn việc cửa nhà, Sau này còn ngại nỗi đàng xa. Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ, Trời mỏn lòng thương xót một già. Lái đã vững vàng cơn sóng lượn, Thoi toan đan dệt lúc mưa sa. Ở đời há dễ quên đời được, Tình thiệt so hơn cũng gọi là …
Bài Họa: (6)
Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà, Dám trách người xưa chửa tính xa? Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ, Chìu lòn e cũng mỏn hơi già. Mồi thơm cá quý câu không nhạy, Cung yếu chim cao bắn chẳng sa. Đáy giếng trông trời giương mắt ếch, Làm người như vậy cũng rằng là …
Bài Xướng: (7)
Cũng gọi là người ắt phải lo, Ngay vạy nảy ra cho biết mực,. Thấp cao trông thấy há rằng đo, Thấp cao trông thấy há rằng đo. Xe Châu nào đợi kinh năm bộ, Níp Tống vừa đầy sách nửa pho. Lòng này dầu hỏi mà không hổ: Lặng xét thầm soi cũng biết cho !
Bài Họa: (7)
Rằng là người trí củng xa lo, Nhuần nhã kinh luân mới phải trò. Ngay vạy nảy ra cho biết mực, Thấp cao trông thấy há rằng đo. Xe Châu nào đợi kinh năm bộ, Níp Tống vừa đầy sách nửa pho. Chuốc miệng khen người nên cắc cớ: Đạo trời ghét vạy há soi cho !
Bài Xướng: (8)
Đã biết cho chưa, hỡi những người, Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười. Ví dầu, vật ấy còn roi dấu, Bao quản, thân này chịu dể ngươi. Trăng giữa ba thu, mây cũng tỏ, Hoa trong chín hạ nắng còn tươi. Khó lòng mình biết, lòng mình khó, Lòn lỏi công trình kể mấy mươi.
Bài Họa: (8)
Soi cho cũng biết ấy là người. Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười; Ba cõi may dầu in lại cũ, Đôi tròng trông đã thấy không ngươi. Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch, Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi. Đứa dại trót đời, già cũng dại, Lựa là tuổi mới một đôi mươi.
Bài Xướng: (9)
Kể mấy mươi năm nước lễ văn, Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn; Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy, , Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn. Hết sức người theo trời chẳng kịp, Hoài công chim lấp biển không bằng. Phải sao chịu vậy thôi thì chớ, Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng.
Bài Họa: (9)
Một đôi mươi uổng tính xăn văn, Đất lở ai mà dễ dám ngăn ? Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa Xốn xang nào tưởng việc làm ăn. Thương người vì nước ngồi không vững, Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng. Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng, Dõi theo người trước giữ năm hằng.
Bài Xướng: (10)
Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay, Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy. Đất quét đã đành bia lỗ miệng, Chén tràn e nỗi trở bàn tay. Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp, Mặt trắng xem trời cánh khó bay. Chí muốn ngày nào cho được toại ? Giang san ba tỉnh hãy còn đây !
Bài Họa: (10)
Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay, Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy. Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng, Chờ khi tháy máy sẽ ra tay. Nổi chìm mặt thế tình dày mỏng, Cao thấp dầu ta sức nhảy bay. Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ, Hơn thua chưa quyết đó cùng đây. Tôn Phu Nhân quy Thục Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,