Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng, Ngàn thurạng tiết gái Giang Đông. Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc, Về Hán trau tria mảnh má hồng. Son phấn thà cam dày gió bụi, Đá vàng chi để thẹn non sông. Ai về nhắn với Chu Công Cẩn, Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
Tôn Thọ Tường
Ghi Chú: Họ của Tôn Thọ Tường 尊 壽 祥 không phải họ như Tôn Văn 孫 文 hay Tôn Đức Thắng 孫 德 勝, mà chữ Tôn 尊 này có nghĩa là: tôn sư trọng đạo 尊 師 重 道, chí tôn 至 尊 hay tôn trọng 尊 重.
=====================================
Bài Họa Tôn Phu Nhân Quy Thục
掑 橬 𢯢 襖 院 句 從,
𩈘 𨁟 𡗶 𣊿 别 𡎝 東.
𤌋 鎖 隤 吳 煴 色 𤽸,
縁 衛 坦 蜀 淡 牟 紅.
𠄩 𦠘 絲 𩯀 𥾽 𡗶 坦,
沒 挭 綱 常 𥘀 𡶀 滝.
英 唉 孮 權 英 𣎏 别,
𤳆 𣦍 𥚤 主 𡛔 𥚤 𤳆.
潘 文 值
Cài trâm sửa trấpvẹn câu tòng, Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông. Khói tỏa đồi Ngô un sắt trắng, Duyên về đất Thục đượm màu hồng. Hai vai tơ tóc bền trời đất, Một gánh cương thường nặng núi sông. Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết, Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
Phan Văn Trị
Chú thích : theo sử liệu ghi lại thì vào thời buổi Cụ Nguyễn Du, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Hồ Xuân Hương, thì quý vị tiền bối này đều học chữ Hán, và khi làm thơ thì thấy viết ra bằng Chữ Nôm, mãi đến thế hệ chúng ta thì thời kỳ này mới có Việt Ngữ hay gọi là chữ Quốc Ngữ.