Thơ Tiền Chiến

Xuân Hạ Thu Đông

Thơ Ngô Chi Lan: Nữ sĩ đời Lê Thánh Tôn. Người làng Phù Lỗ, huyện Kim Anh (trước là huyện Kim Hoa), tỉnh Phúc Yên, Bắc phần. Bà rất nổi tiếng về việc sáng tác thi ca, từ khúc: chồng là Đông Các đại học sĩ : Phù Thúc Hoành. Vua Lê thường triệu vào hầu thơ và phong cho chức Phù Gia nữ học sĩ và dạy học cho cung nữ.
Nữ sĩ thọ được 41 tuổi thì mất.
Thơ của bà làm rất nhiều, có chép trong “Mai Trang Tập” nhưng bị thất truyền, nay chỉ còn sót lại có bàiVịnh Bốn Mùa”, có người nói là “Thơ Tứ Thời” nguyên văn như sau:
XUÂN :
Khí trời ấm áp đượm hơi dưong,
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng.
Rèm liễu líu lo, oanh hót gió,
Giậu hoa phấp phới, bướm châm hương.
HẠ :
Gió bay bông lựu đỏ tơi bới,
Tựa góc cây đu đứng nhởn chơi.
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh,
Én kia nhớ cảnh cũng gào hơi.
THU :
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời cánh nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
ĐÔNG :
Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng,
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông.
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa,
Gió phẩy mưa băng giải mặt sông.
Ngô Chi Lan.
Nguồn: “Thành Ngữ Điển Tích” của GS Trịnh Văn hanh)

Leave a Reply