從越南詩 <Ông Đồ >音譯為中國詩 <老 徒>
(Chuyển Dịch bài Thơ Ông Đồ Sang Hoa Ngữ)
老 徒 Lão Đồ
每 年 桃 花 開, Mỗi niên đào hoa khai,
常 見 老 徒 在. Thường kiến lão đồ tại.
墨 硯 紅 紙 擺, Mặc nghiễn hồng chỉ bài,
稠 鋪 人 遠 來. Trù phố nhân viễn lai.
許 多 人 借 寫, Hử đa nhân tá tả,
總 是 賞 才 之. Tổng thị thưởng tài chi.
妙 手 壹 筆 揮, Diệu thủ nhất bút huy,
如 鳳 舞 龍 飛. Như phụng vũ long phi.
但 荒 冷 復 年, Đãn hoang lãnh phục niên,
借 寫 人 哪 里. Tá tả nhân na lý ?
紅 紙 悲 色 淡, Hồng chỉ bi sắc đạm,
墨 愁 殘 硏 中. Mặc sầu tàn nghiễn trung.
老 徒 還 坐 那, Lão đồ hoàn tọa na,
來 往 客 誰 知. Lai vãng khách thùy tri.
黄 葉 落 紙 上, Hoàng diệp lạc chỉ thượng,
天 邊 塵 雨 飛. Thiên biên trần vũ phi.
今 年 桃 又 開, Kim niên đào hựu khai,
不 見 舊 老 徒. Bất kiến cựu lão đồ.
千 古 人 萬 代, Thiên cổ nhân vạn đại,
魂 魄 何 處 埋. Hồn phách hà xứ mai.
東天哲 Đông Thiên Triết
Dưới đây là nguyên tác bài thơ “Ông Đồ Già” của Nhà Thơ Vũ Đình Liên
Mỗi năm hoa Đào nở,
Thường thấy ông Đồ già.
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài,
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
Người thuê viết nơi đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông Đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay Đào lại nở,
Không thấy ông Đồ xưa.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ.
Vũ Đình Liên
error: Content is protected !!