Thơ Tự Do

Thư Hà Thượng Nhân viết cho Hữu Loan

Thơ HTN: Viết Cho Hữu Loan

(*) là một Nghĩa Sĩ thất chí, tác giả bài thơ Đường, viết theo chữ Hán, khá nổi tiếng:
Thế sự du du nại lão hà.Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.
(Viết Cho Hữu Loan)
Trán cao tóc xù
Trai Quảng Bình trong quán phở chiến khu.
Đập bàn tắt đèn, thét săn tay áo:
Thằng Ái Mỹ-Lộc bắn thằng Kỳ Hoàng Lão (1).
Nguyễn Hữu Loan!
Hồn nhiên như con trẻ,
Đơn sơ như miệng cười,
Dám chân thành làm một con người.
Giữa bão tố quyết không là cây sậy.
Chỉ biết cúi đầu vâng lời lẽ phải,
Với bạn bè gìn giữ thủy chung (2).
Đỗ Phủ xưa dù lớn vô cùng,
Nguyễn Hữu Loan không chịu là Đỗ Phủ (3),
Ba mươi mấy năm chân trần lam lũ,
– Đói không Loan?
– Khổ không Loan?
– Tao chẳng khổ bao giờ,
Tao đi cày như tao làm thơ,
– Mày đi cày vì mày dám làm thơ.
Thơ vĩ đại vì thơ không đánh đĩ.
Bọn dối trá chẳng thể là thi sĩ,
Kiệt Trụ đừng nói chuyện thi ca.
Nhớ Nguyễn Du rau cháo xanh da,
Nửa tháng ốm không có tiền mua thuốc,
Không cần thép, thơ vẫn là bó đuốc.
Thơ nâng người cao sát với thần linh,
Tiếng chim nào lảnh lót giữa bình minh.
Đêm thu quạnh, bến Tầm Dương đưa khách,
Trên ngàn năm tưởng như bờ lau lách,
Của người xưa vang vọng mãi đâu đây.
Loan ơi Loan! Khi mày rít điếu cày,
Đội nón lá, bạn mấy người áo ngắn.
Tầm thường thế mà khắp nơi bàn tán,
Súng làm chi? Sắt thép để làm chi?
Chiều hôm nay trải chiếu cạnh đường đi,
Nâng chén rượu nhắc nhau câu sách cổ,
Cung điện lớn cũng là ngày sắp đổ,
Nhưng văn chương vạch mặt lũ gian tà,
Uy quyền nào khuất phục nổi lòng ta?
Mày nói đúng: Chúng mình đều lớn tuổi,
Nhưng chẳng chịu quay lưng vào Lẽ Phải,
Vẫn say mê như thuở ấy đầu xanh.
Bốn mươi hai năm! Mình gặp lại mình,
Tao vẫn thế, té ra mày vẫn thế,
Coi thủ đoạn như những trò con trẻ,
Lấy chân thành làm võ khí vô song.
Mày tìm gặp tao – thật cũng lạ lùng!
Khi nhận biết cười không còn nước mắt,
Tao nhìn mày thương thì thương thật,
Nhưng lòng tao hãnh diện lắm Loan ơi!
“Không làm nhà vì tôi bận làm người, (4)
“Phú quý bất năng dâm,
Bần tiện bất năng di,
Uy vũ bất năng khuất”, (5)
Bạc vàng gì cũng mất,
Nhưng làm sao mất được niềm tin?.
Tao gặp mày khỏi phải giữ gìn,
Nửa thế kỷ tin nhau là bạn,
Rượu đế xoàng thôi – nâng ly uống cạn,
Con tôm khô nhắc lại thú quê hương.
Tao ước một ngày về tận Vân Hoàn, (6)
Ra vườn trước bẻ bắp ngô vào nướng,
Rồi tao nhắc những bạn bè thuở trước,
Những chiếc xe con, những bộ com-lê,
Những phấn, những son Rượu thịt ê hề,
Chúng nó chết từ lâu mày ạ!
Chúng nó chết thì có gì là lạ?
Chết vì quên nồi cháo lá khoai lang,
Mày uống đi! Nửa thế kỷ kinh hoàng,
Vẫn còn lại người giao liên Ban Thống, (7)
Ban Thống gần như thất học,
Nhưng người nào có học hơn anh?,
Mày về Nga Sơn (8) thân thích quay mình,
Đỗ Hữu Thống dám về thăm thủ trưởng,
Dám công khai tán thưởng,
Dám coi thường thép súng bao vây.
Lên rừng xanh (9) có sắn cho mày,
Giữa thiện ác bày hai thế trận,
“Náo thị, u lâm mạc luận,
Cổ kim cao hữu năng tầm”, (10)
Thế cho nên từ Bắc vào Nam,
Bặt tin tức ta vẫn còn gặp lại.
Ta không uống để quên,
Mà uống để nhớ sầu vạn đại,
Như để nhìn – để nhớ bạn bè ta,
Có phải không? Nếu không có phong ba,
Thì cây lớn với cỏ hèn cũng vậy,
Thời đại ta hào hùng như thế đấy,
Mày tưởng đâu tao đã hết làm thơ,
Hú hí vợ con, thừa mứa sữa bơ,
Lại kênh kiệu tập làm trưởng giả,
Chúa Giê-Su đầu thai trong máng cỏ,
Phật Thích Ca từ bỏ cả ngai vàng,
Bàn tay không mà lại có Thiên Đàng!.
Ta còn nhớ mãi,
Trên đỉnh Hoàng Liên Sơn có cây mai cỗi,
Mọc lơ thơ ngạo nghễ mấy bông vàng,
Mày trở về làng,
Không lẻ loi đơn độc,
Mày vào Đà Lạt,
Có người con gái ôm hôn rồi khóc.
Mày vào Sài Gòn,
Nhiều kẻ không quen,
Nghe nói đến con người “độc đáo”, (11)
Thiếu quần, thiếu áo,
Tìm thăm thân thiết hân hoan,
Nguyễn Hữu Loan.
Hà Thượng Nhân
(1) Trích bài Quách Xuân Kỳ của Nguyễn Hữu Loan, phản ảnh trung
thực con người Nguyễn Hữu Loan: đơn xơ, xù xì, quyết liệt.
(2) Gia đình tôi địa chủ, đang đi phát động đấu tố, Nguyễn Hữu Loan
nấu cơm khoai, đi bộ 20 cây số vào thăm cha mẹ tôi.
(3) Xuân Diệu đọc bài Đèo Cả nói với anh em: “Nguyễn Hữu Loan
là Đỗ Phủ của thời đại”.
(4) Một người bạn hỏi sao không nhà, Nguyễn Hữu Loan
trả lời: “Tôi bận làm người nên chưa có thì giờ làm nhà”.
(5) Giàu sang không làm say đắm. Nghèo hèn không làm đổi thay.
Uy quyền không thể làm mình khuất phục.
(6) Tên làng Nguyễn Hữu Loan
(7) Ban là con đầu lòng của Đỗ Hữu Thống, cán bộ
giao liên của Nguyễn Hữu Loan. Thanh Hóa có tục kiêng tên.
Lớn tuổi gọi tên con. Nếu có 2, 3 người cùng tên, ghép tên hai
cha con làm một.
(8) Tên huyện của Nguyễn Hữu Loan
(9) Đỗ Hữu Thống định cư vùng kinh tế mới thuộc Cẩm Thủy.
(10) Đây là một vế của câu đối bằng chữ Hán,
Nguyễn Hữu Loan tặng Ban Thống: “Chẳng kể chỗ chợ búa ồn
ào hay chốn rừng sâu u tịch, xưa nay những người bạn lớn vẫn
thường tìm gặp nhau”.
(11) Nhại danh từ của Nguyễn Hữu Loan đã dùng trong bài
thơ Màu Tím Hoa Sim (Nàng cười xinh xinh bên an
h chồng độc đáo).

Leave a Reply