Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà – mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ vĩ đại của đất nước ta trong thế kỉ XIX. Ông đã sống giữa một thời kì biến động và đau thương của dân tộc. Cuộc đời của ông đầy bi kịch xót xa. Ông là một nhà nho chân chính đã dạy cho chúng ta bài học vể cách sống và ứng xử: vươn lên mọi bất hạnh để sống đẹp, sống trong yêu thương và căm ghét phân minh, rõ ràng. Trong bài thơ “Than đạo” ông viết:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Hai câu thơ bày tỏ một quan niệm văn chương của Đồ Chiểu. Thuyền là hình ảnh ẩn dụ nói về văn thơ và sự nghiệp văn chương. Đạo là đạo đức, đạo lí làm người. Văn chương là chở đạo, chàởbao nhiêu đạo thuyền không khẳm — thuyển cũng chẳng đầy. Sức chứa đạo đức, đạo lí của con thuyền văn chương là vô cùng to lớn và vô tận.
“Thằng gian” là một khái niệm mang tính lịch sử. Trong chế độ phong kiến thối nát dưới triều Nguyễn là bọn bất lương, bọn lừa thầy phản bạn, kẻ ác, kẻ xâu, bất nhân bất nghĩa. Khi thực dân Pháp đến ăn cướp nước ta thì thằng gian là giặc Pháp và lũ Việt gian bán nước, bọn đầu hàng giặc. Chữ “đâm” và chữ “thằng” thể hiện một thái độ quyết liệt, đầy căm thù và khinh bỉ. Câu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” nghĩa là lấy thơ văn để đánh địch, đánh quyết liệt, đánh đến cùng thì ngòi bút (bút lông) cũng không mòn, không cùn, không tù, càng đánh càng sắc.
Hai câu thơ nói lên một quan niệm văn chương “Văn dĩ tải đạo”: văn chương có mục đích giáo dục to lớn; nhà thơ có sứ mệnh lấy thơ văn làm vũ khí chiến đấu để bảo vệ đạo đức, nêu cao chính nghĩa, chống lại mọi kẻ thù của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu suốt đời đã sống và sáng tác vì một quan niệm văn chương cao đẹp như thế.
Nguyễn Đình Chiểu quan niệm văn chương là con thuyền “chở đạo” chở bao nhiêu đạo cũng không khẳm, cũng không đầy bởi lẽ ông đề cao chức năng giáo dục của văn chương. Sứ mệnh của văn chương nhằm giáo dục đức hi sinh, lòng vị tha, nghĩa thủy chung của con người, đề cao đạo đức và đạo lí của nhân dân như trung, hiếu, tiết, hạnh:
“Trai thời trung, hiếu làm đầu,
Gái thời tiết, hạnh là câu trau mình”
(Truyện Lục Vân Tiên)
Người xưa quan niệm bản chất của thi ca nghệ thuật là “có ích dụng cho đời”, nó có tác dụng “khuyến thiện, trừng ác”, góp phần chấn hưng đạo đức, bồi dưỡng nhân tâm, đề cao nhân nghĩa.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho chân chính, yêu nước thương dân, cho nên “đạo” mà ông nói đến mang nội dung nhân dân, tích cực tiến bộ:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xỉn tròn một tấm gương”.
Lời thơ khẳng định “Lòng đạo” và quyết tâm của nhà thơ. Thà đui mù, tật bệnh nhưng tình cảm, tấm lòng của ông vẫn trong sáng thủy chung với đời, vẫn lo cho dân, cho nước. “Đạo” mà con thuyền thi ca của Nguyễn Đình Chiểu chở mãi vẫn không đầy chính là tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước chống xâm lăng của ông.
Một đời thơ của Đồ Chiểu không chỉ quan niệm “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm” mà ông còn luôn luôn tâm niệm “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Càng “đâm” càng vạch mặt chỉ tên những “thằng gian”, lũ bất lương, bất hiếu, bất trung, bọn lừa thầy phản bạn, thì ngọn bút thơ càng sắc nhọn. Nhà thơ có thái độ yêu ghét rõ ràng; thơ ca phải mang tính chiến đấu trên lập trường nhân dân và dân tộc, vì đạo hiếu trung, vì nhân nghĩa:
“Mến nghĩa sao đành làm phản nước
Có nhân sao nỡ phụ tình nhà
Trong xã hội phong kiến mục nát, đạo lí suy đồi thì nhà thơ “đâm mấy thằng gian” để bảo vệ nhân nghĩa, làm cho nhân nghĩa vằng vặc chói loà như hai vầng nhật nguyệt. Khi đất nước bị ngoại bang xâm lăng, là kẻ sĩ không thể để quân thù mua chuộc, lợi dụng:
“Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu
Xông hai con mát bỏ liều cho đui”.
Là kẻ sĩ có thái độ khinh bỉ, vạch mặt chỉ tên bọn bán nước, cầu vinh, bọn xu nịnh, tham lam ở đời: “Sáng chi đua nịnh theo đời – Nay vinh mai nhục mang lời thị phi”. Nguyễn Đình Chiểu không phải là người chỉ có ghét, chỉ có bất hợp tác, chỉ có một lòng bảo vệ “đạo”, bảo vệ “nhân nghĩa” và “thiên luân” mà hơn thế, mặc dù bị mù, ông đã nhìn rất rõ mọi việc, mọi sự kiện bằng tất cả mối liên hệ với nhân dân. Ông không ở ẩn. Ông đã trực diện dùng ngòi bút sắc nhọn nhân nghĩa để không ngừng đấu tranh với giặc, với bọn buôn dân bán nước, với quyết tâm “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Quan niệm văn chương như trên đây của Nguyễn Đình Chiểu rất gần với lí tưởng thẩm mĩ của người xưa: “Văn chương phải có ích cho thiên hạ … loại văn chương làm sáng đạo lí…. là loại văn chương vĩnh viễn tồn tại ở đời … văn chương xu nịnh thì hại cho mình, vô ích cho người” … (Cố Viêm Vũ, đời Thanh…)
Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” là đề cao tính chiến đấu, mà sau này Bác Hồ lại có một cách nói mới mẻ: “Nay ở trong thơ nên có thép — Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Tóm lại, hai câu thơ:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm;
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
cho thấy quan niệm văn chương và sứ mệnh của nhà thơ trước cuộc đời là đúng đắn, tiến bộ- Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã phản ánh một cách trung thực cao đẹp quan niệm văn chương ấy.
Trong truyện “Lục Vân Tiên”, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tạo ra hai thế giới nhân vật đối lập nhau, thể hiện sâu sắc ý tưởng hàm chứa trong hai câu thơ ấy.
Lục Vấn Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh, ông Quán, ông Ngư,
Lão Bà, Tiểu Đồng … là những con người giàu lòng nhân nghĩa, đề cao đạo lí làm người, coi thường đanh lợi, ăn ở thủy chung. Mỗi một nhân vật là một tấm gương sáng tiêu biểu cho một lớp người trong xã hội được nhà thơ ngợi ca. Vân Tiên là một anh hùng nghĩa hiệp sẵn sàng xả thân để cứu vớt nhân dân:
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu nguời cho khỏi lao đao buổi này!”
“Cứu người” là để “chở đạo”, và để cứu người, Vân Tiên đã “bẻ cây làm gậy”, “đánh tan lũ cướp” làm cho tên tướng giặc Phong Lai “thác rày thân vong”. Nguyễn Đình Chiểu đã “đâm mấy thằng gian” với tất cả sức mạnh và sự khinh bỉ như thế!
Vương Tử Trực đã mắng nhiếc cha con Võ Thể Loan:
“Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe”.
Đó là tiếng nói của đạo lí lên án những phường bất nghĩa, bất nhân. Và đó cũng là thái độ “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” của Nguyễn Đình Chiểu.
Ông Ngư phảng phất một nhà nho “lánh đục tìm trong” sống cuộc đời ung dung thanh nhàn “tắm mưa, chải gió trong vời Hàn Giang”. Con thuyền của ông Ngư đâu chỉ để câu cá, đánh cá mà là con thuyền nhân nghĩa “chở đạo” rất đáng tự hào. Cả nhà xúm lại cứu giúp Vân Tiên bị nạn: “Hối con vầy lửa một giờ— Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”. Ông muốn được nuôi nấng, cưu mang người cô đơn, đui mù “Sớm hôm hẩm hút một nhà cho vui”. Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi Ngư ông, một con người trọng nghĩa khinh tài bằng những vần thơ “chở đạo” rất hồn hậu:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây!”.
Cha con Võ Thế Loan đẩy Vân Tiên vào hang. Sau mấy ngày bơ vơ đói khát, chân tay rã rời không sao lết đi nổi thì chàng đã gặp lão Tiều. Lão mở gói cơm cho ăn, săn sóc với tất cả tình thương. “Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà”. Cử chỉ và hình ảnh ấy rất đẹp sáng người đạo lí “thương người như thể thương thân
Kiều Nguyệt Nga không chỉ là một thiếu nữ “vóc ngọc mình vàng”, mà còn là con người trọng chữ “lễ” trong ứng xử, biết sống và phấn đấu đến cùng cho sự thủy chung trọn tình vẹn nghĩa. Nàng được mọi người tấm tắc ngợi khen và xứng đáng được hưởng hạnh phúc:
“Nguyệt Nga là gái tiết trinh
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng”.
Thế giới nhân vật thứ hai trong truyện thơ “Lục Vân Tiên” là bọn bạc ác tinh ma, bất nhân bất nghĩa ở đời. Là tên Thái sư xảo quyệt độc ác. Là cha con Võ Thể Loan tráo trở, trơ trẽn, vô liêm sỉ. Là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm gian manh, xấu xa. Ai đã trói Tiểu Đồng vào gốc cây làm mồi cho cọp? Ai đã đẩy Vân Tiên xuống sông giữa đêm tối? Ai đã bỏ Vân Tiên vào hang Thương Tòng cho chết đói? Ai đã âm mưu đưa Kiều Nguyệt Nga cống Ô Qua? Tội ác của chúng đều không thoát khỏi lưới trời lồng lộng? Võ Công đã chết trong nhục nhã! “Thái Sư cách chức về nhà làm dân”, Trịnh Hâm là đứa bạo thần” đã bị trói giữa triều đình, bị đuổi về nhà rồi bị sóng thần dìm chết trên dòng Hàn Giang. Và đây là hình ảnh “nhà nho” Bùi Kiệm:
“Con người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu”.
Sự nhơ nhuốc không thể nào nói hết! Nguyễn Đình Chiểu viết: “Làm người ai nấy thì đừng bất nhân”. Bọn gian tà, bất nhân đã bị trừng phạt . Nhà thơ đã vạch mặt chỉ tên trước “toà án lương tâm”, ông đã khinh bỉ và căm giận “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyên Đình Chiểu càng toả sáng trong phần văn thơ yêu nước. Khái niệm “đạo” mang một nội dung mới khi “súng giặc đất rền – lòng dân trời tỏ”, khi giặc Pháp xâm lược đất nước ta. “Đạo” của mọi người là biết “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, quyết không dung tha “lũ treo dê bán chó”, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp “đoạn kình”, “bộ hổ” để cứu nước cứu nhà. Điều đó cho thấy: Nhân nghĩa là yêu nước, “đạo ” mà con thuyền văn chương chở, phải chở là lòng yêu nước thương dân, là lòng căm thù bọn giặc cướp nước và bán nước, là quyết tâm không đội trời chung với chúng:
“Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cữ
Làm người sao nỡ phụ quê hương”.
(Ngựa tiêu sương)
“Bờ cõi xưa đà chia đất khác
Nắng sương nay há đội trời chung!”.
(Xúc cảnh)
Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ cảm động nhất để ca ngợi và viếng những anh hùng đánh Pháp như Trương Định, Phan Tòng; … những anh hùng “nghìn năm tiết rỡ”:
“Dấu đạn hây chìm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn”.
“Giúp đời dốc trọn trang nam tử
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thẩn”.
(Thơ điếu Trương Định)
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn tế hay nhất trong các bài văn tế cổ kim của ta. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng đài bi tráng về người nông đân yêu nước đánh Pháp giữa thế kỉ XIX. Lòng yêu nước và chí quả cảm của họ đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn:
“Kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Sống và chết vì đại nghĩa là cái “đạo” lớn ở đời, để lại tiếng thơm muôn thuở, được nhân dân mến mộ:
“Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”.
“Đâm mây thằng gian bút chẳng tà”, trước hết Nguyễn Đình Chiểu vạch mặt lên án, kết tội giặc Pháp đã kéo tới xâm chiếm đất nước ta, giết người cướp của, gây ra bao tội ác tày trời:
“Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
Tội chẳng tha con nít, đàn bà, đốt nhà bắt vật!”
… Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo, bị tù, bị dày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đêm tên;
Đem ba tấc bơi mỏn bỏ liều, hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt “
(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)
Nỗi đau thương của nhân dân không thể nào kể xiết. Mỗi lời văn tế như thấm đầy máu và lệ, sôi sục căm hờn. Từ ngày “Tẩy qua cướp đất; dựng tân trào gây nợ oán cừu “, bọn “phụ tình nhà”, lũ “làm phản nước” đã núp bóng “cờ tam sắc” của bầy “bạch quỷ” để bán nước cầu vinh. Nguyễn Đình Chiểu đã ghét cay ghét đắng, đã mỉa mai khinh bỉ chúng:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn dộc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ!”.
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Nguyễn Đình Chiểu tuy nếm trải nhiều bất hạnh, lại sống trong một giai đoạn lịch sử đen tối và đau thương của dân tộc, thế mà ông đã nhìn đúng hướng đi của lịch sử và giữ trọn tấm lòng son sắt sáng ngời. Thơ văn của ông đã vượt lên vể cả hai mặt tư tưởng và nghệ thuật để “chở đạo” và “đâm mấy thằng gian”, vừa chửi thẳng vào mặt các loại kẻ thù của dân tộc, vừa khẳng định và ngợi ca những con người “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc…” Ông là một nhà nho chân chính, một mặt tiếp thu được
Những tư tưởng tích cực trong kinh sử, mặt khác – chủ yếu đã “sống cuộc sống của quần chúng, thống cảm sâu sắc với quần chúng , và đã cùng với quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cần cù dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, chở trí tuệ, cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu ” (“Hoài Thanh).
Tóm lại, hai câu thơ:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”