Đọc Thêm: Xin nhấn vào Link dưới đây để đọc bài thơ:
Kỉnh Vấn Thi Hào Thôi Hiệu
Trong quyển Đường Thi Tam Bách Thủ, có ghi lại sự tích như sau: Ở trên vách của ngôi lầu Hoàng Hạc có một bài thơ, bài thơ đó, về sau, được người đời xiển dương 闡揚 là một tuyệt tác phẩm của Ngài Thôi Hiệu (hay là Thôi Hạc) và vào thời buổi đó thì chưa có thể thơ Đường Luật, mãi cho đến thời gian sau này, bắt đầu có thể thơ gọi là “Đường Luật”, thì lúc bấy giờ, các thi nhân mới gọi các thể thơ làm ra trước ngày có thơ Đường Luật, thì gọi các thể thơ đó là thơ “cổ phong”, cụ thể là bài thơ Hoàng Hạc Lâu này, qua bút tích của thi hào Thôi Hiệu, mãi cho đến hiện giờ, bút tích đó vẫn còn lưu lại trên vách của ngôi lầu, do đó, trong dân gian gọi ngôi lầu đó là lầu Hoàng Hạc.
Nguyên ngôi lầu này tọa lạc tại hướng Tây Bắc, thành Vũ Xương, ngày nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Hoa. Đặc biệt ngôi lầu này, nhờ có bút tích của bài thơ Hoàng Hạc mà nó trở thành nguồn hấp lực đối với văn nhân, thi sĩ, bởi sức hút rất mãnh liệt của bài thơ khi họ đứng bên một bút tích của Ngài Thôi Hiệu, nên hồn phách lúc này được men rượu khéo đưa nguồn thơ, văn khí của họ bay bổng trên tầng mây của lầu Hoàng Hạc mà cấu trúc thành những áng văn thơ kỳ diệu.
Tương truyền rằng: Xưa kia có một vị tiên ông, tên là Phí Văn Vi, sau khi tu đắc đạo thành Tiên, Ngài Phí Văn Vi thường cưỡi con hạc lông vàng, rồi đáp xuống căn lầu hoang vắng này để nghỉ ngơi và những lúc đó, Ngài Phí Vi thường xuyên hội ngộ cùng các vị tao nhân mặc khách để ngâm vịnh hay cầm kỳ thi họa trên ngôi lầu này.
Xưa nay, phàm những cuộc vui hội ngộ, tao phùng nào mà không có buổi chia ly ? Phí Tiên ông cùng các tao nhân mặc khách kia cũng không ngoại lệ, thế cho nên trong các buổi cầm kỳ thi họa thường xảy ra với các vị tao nhân kia, cũng chỉ được ít lâu, thì bỗng dưng một hôm, Phí Văn Vi đột nhiên cưỡi con hạc vàng rồi bay đến một phương trời xa thẳm, y như những lần trước, nhưng chuyến cưỡi hạc ra đi lần này, coi như là lần cuối mà Phí Tiên ông không bao giờ quày trở lại nữa, cho nên ở 4 câu thơ đầu trong bài Hoàng Hạc ghi như sau:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, 昔 人 已 乘 黃 鶴 去,
Thử địa không dư, Hoàng Hạc Lâu. 此 地 空 餘 黃 鶴 樓。
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, 黃 鶴 一 去 不 復 返,
Bạch vân thiên tải không du du. 白 雲 千 載 空 悠 悠。
Giải nghĩa những chữ trong 4 câu thơ trên như sau:
“Dĩ thừa“ 已 乘: đã cưỡi, cụm từ “Không Dư” 空 餘: có nghĩa là trống vắng hay thừa lại. chữ “Thiên Tải “千 載: là danh từ: Ngàn Năm, chữ Tải có nghĩa là Năm . “Không Du Du”: 空 悠 悠: ngụ ý miêu tả những áng mây bay lơ lửng trên tầng không.
Dịch ra 4 câu thơ đầu cho xác ý nghĩa của nguyên văn chữ Hán và thể Thơ Đường Luật (Bằng Trắc) thì phải Dịch như vầy:
Người xưa đã cưỡi hạc về đâu ?
Hoàng Hạc Lâu, nay vắng bạn bầu.
Một rẽ, hạc vàng biền biệt bóng,
Ngàn treo, mây trắng lửng lơ lầu .
Bốn câu thơ sau cùng như sau:
Tình xuyên lịch lịch hán Dương thụ, 晴 川 歷 歷 漢 陽 樹,
Phươngtha3o thê thệ Anh Vũ châu. 芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲。
Nhật mộ hương quan hà sứ thị, 日 暮 鄉 關 何 處 是,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu. 煙 波 江 上 使 人 愁。
Giải nghĩa những chữ trong 4 câu thơ trên như sau:
Nhắc lại về phần quý tao nhân mặc khách kia, khi họ trở lại căn lầu Hoàng Hạc như những lần trước để mong được đối ẩm, cầm kỳ thi họa cùng Phí Vi, thì đến lúc này mới hay Phí Vi đã cưỡi hạc ra đi không trở lại nữa.
Sự ra đi vĩnh viễn của Phí Vi Tiên Ông đã để lại đằng sau những thương tiếc của các vị tao nhân mặc khách này, vì ở nơi họ, là cả một sự thương nhớ mỏi mòn, chờ đợi tri kỷ tri âm trong tuyệt vọng.
Sự chờ đợi mãi cho đến một ngày kia, tất cả các vị tao nhân mặc khách này, rồi cũng đến lượt họ, phũi tay, nhắm mắt, ra đi vĩnh viễn trong cát bụi, trong hư vô, theo định luật: Thành, Hủy, của càn khôn vũ trụ.
(Tục truyền rằng, Ngài Phí Văn Vi đã cưỡi hạc vàng về cảnh tiên giới để tiếp tục con đường tu hành ở trên đó) và mãi đến nhiều năm sau này, người quanh làng không còn nhìn thấy các tao nhân mặc khách cùng Phí Vi Tiên Ông nữa, lúc đó người ta mới gọi nhau đặt tên cho căn lầu hoang vắng này là lầu Hoàng Hạc (Di tích lịch sử tòa lầu này, hiện vẫn còn tọa lạc tại tỉnh Hồ Bắc, TQ)
Giải nghĩa những chữ trong 4 câu cuối như sau:
Cụm từ “lịch lịch” 歷 歷 nghĩa là mù mịch, dày đặc, Chữ “thê thê” 萋 萋: ý như tằm nhìn xa thăm thẳm hay man mác do trời vừa tạnh cơn mưa, có chút hơi ẩm, lành lạnh. Cụm từ “nhật mộ” 日 暮 là lúc bầu trời sụp tối, từ “hương quan” 鄉 關 ý nói quê quán, chữ “hương là quê hương”, chữ “quan là cửa ngỏ”, đường đi đến quê hương. chữ “yên ba” là hơi nước tạo nên khói sóng, như chữ “yên” 煙 nghĩa là khói, chữ “ba” 波 nghĩa là cơn sóng vỗ tung tóe bọt trắng và 3 chữ sau cùng là”hà xứ thị” 何 處 是 có nghĩa là “ở nơi đâu?”.
Dịch 4 câu thơ kế tiếp cho xác ý nghĩa là:
Dòng sông lạnh, dặc đầy Dương thụ,
Thảm cỏ xanh, man mác Vũ châu.
Đâu ngõ quê hương, chiều sụp tối ?
Trường Giang khói sóng, khiến ta sầu !
Thời gian sau, nhân một chuyến du ngoạn, lúc thi hào Thôi Hiệu đi ngang qua căn lầu hoang vắng này, tiện ghé vào lầu để nghỉ ngơi, thì được nghe dân làng quanh vùng đó kể lại sự tích trên, rồi Ngài dõi mắt nhìn quanh quang cảnh căn lầu hoang, bụi bám, tơ nhện giăng đầy khắp mà ngậm ngùi thở dài.
Kế đó, được những cư dân quanh vùng thuật lại tận tường khúc chiết về lịch sử ngôi lầu này, khiến Thôi Hiệu cảm khái xót xa, mang nỗi buồn cho những người xưa đà khuất bóng, mà nay chỉ còn trơ lại ngôi lầu hoang vắng, cũ kỹ, tro bụi, rong rêu, trên một triền đồi hẻo lánh, trong một khung cảnh âm u của núi rừng sâu thẩm, để rồi, với hồn thơ đa sầu, dạt dào cảm tính, thì đó chính là tụ điểm của một bức tranh xuân sơn thủy lục, được tô điểm qua sắc thái dưới bóng một buổi chiều tà, kịp lúc đó, ánh hoàng hôn cũng vừa buông sụp xuống, tức thì bức màn đêm chừng như phủ trùm lên vạn vật hoang vắng trong cô tịch.
Nếu trông về quang cảnh phía trước mặt ngôi lầu, thì chỉ thấy hiện lên những dợn khói sóng trắng trên mặt sông Trường Giang, đang tung tóe trên mặt nước, như đang đùa giởn với bức màn sương dầy đặc, chẳng khác nào như tự nó cố tình muốn che khuất lối đi nẻo về của người lữ khách đường xa, thì thử hỏi, mấy ai mà tránh khỏi cảm giác xa quê hương, để rồi ôm trong lòng nỗi nhớ thương người ở lại quê nhà, nhất là đối với tâm hồn của thi nhân, thì tránh sao khỏi cảm xúc bởi hồn thơ lai láng trổi dậy.
Cảnh trí xuân sơn thủy tú này, được lồng trong tám câu thơ trên đây, đã tô điểm thành một bức tranh sống động mà khiến người sáng tác ra bức “tranh thơ” này, khi ngâm nga lên, cũng phải liên tưởng đến hình ảnh cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc đang ở quê nhà, nhưng chẳng biết sinh hoạt của họ hiện giờ an nguy, phúc họa ra sao?
Cảm nghĩ đó, nó đã trở thành động lực thúc giục, làm nôn nóng đáy lòng rồi như nẩy sanh định kiến của lữ khách đường xa, muốn trở về quê hương ngay trong đêm hôm ấy vì lo lắng hay thương nhớ người ở lại, tuy nhiên, nếu với hoàn cảnh này, hành trình về quê là đoạn đường xa thăm thẳm, bởi phải trải qua các cửa thành Hán Dương, rồi lại phải băng qua bãi Anh Vũ châu xa diệu vợi, thì mới đặt chân đến chốn quê nhà.
Nhưng than ôi ! hiện giờ, đường xá quan san trùng điệp sương mù, sông núi cách trở và mây ngàn giăng lối, đó chính là những chướng ngại vật trước mắt, cản bước cuộc hành trình, thì biết đến bao giờ mình mới phản hồi cố quốc được ?
Cảm xúc bởi quê hương, quyến thuộc, tình thân, len lén xâm nhập vào hồn thơ, khiến ngọn bút thần tức cảnh mà thi thố thần oai, như phụng múa rồng bay, bằng tám câu thơ trên vách tường. Tuy chỉ vỏn vẹn 8 Câu Thần, mà đã phác họa nên một bức gấm dệt, hoa thêu, với những nét đặc sắc của một bức tranh trên lầu Hoàng Hạc.
Với bút pháp tuyệt kỹ, điêu luyện, tạc thành những dòng thơ làm thương cảm triệu triệu con tim từ dạo đó và mãi mãi về sau, rồi bài thơ bắt đầu được dân gian ghi chép lại và truyền tụng cho đến ngày hôm nay, đó chính là bài thơ Hoàng Hạc Lâu như trên vừa kể.
Chuyển ngữ nguyên tác bài Hoàng Hạc:
Tích nhân dĩ thừa, hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư, Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ, bất phục phản,
Bạch vân thiên tải, không du du.
Tình xuyên lịch lịch, Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê, Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan, hà xứ thị ?
Yên ba giang thượng, sử nhân sầu !
Dịch Nôm theo thể Đường Luật:
Người xưa đã cưỡi hạc về đâu ?
Hoàng Hạc Lâu, nay vắng bạn bầu.
Một rẽ, hạc vàng biền biệt bóng,
Ngàn treo, mây trắng lửng lơ lầu .
Dòng sông lạnh, dặc đầy Dương thụ,
Thảm cỏ xanh, man mác Vũ châu.
Đâu ngõ quê hương, chiều sụp tối ?
Trường Giang khói sóng, khiến ta sầu !
Về tiểu sử của thi hào Thôi Hiệu, ông sanh vào năm nào thì không ai biết, nhưng chỉ biết ông mất vào năm 754, (Ông mất trước thi hào Lý Bạch khoảng 8 năm) ông là người huyện Biện Châu, nay là tỉnh Hà Nam, Huyện Khai Phong. Ông đỗ Tiến Sĩ vào năm Khai Ngyên thứ 11, và làm quan đến chức Thượng Thư Tư Huân Viên Ngoại Lang. Thuở nhỏ bản chất thông minh, bắt đầu làm thơ từ tuổi thiếu thời, văn thơ lỗi lạc, nên được người đời gọi ông là: “Niên Thiếu Vi Thư, Danh Thao Khinh Bạt” dịch ra là: (Tuổi trẻ giỏi văn thơ, tiếng tâm thật lẫy lừng).
Một thời gian sau, khi đó, thi hào Lý Thái Bạch, nhân một hôm đi du ngoạn, cũng có ghé lầu Hoàng Hạc, và Ngài cũng có đọc qua bài thơ của thi hào Thôi Hiệu, với những bút tích vẫn còn y nguyên trên vách tường, khi đọc xong bài thơ, Lý Trích Tiên không tiếc lời khen ngợi thiên tài của Thôi Hiệu, cho nên Lý Bạch thốt ra 2 câu thơ, và ghi lại trên vách tường kế bên bài thơ Hoàng Hạc như sau:
Nhãn tiền hữu cảnh, đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
眼 前 有 景 道 不 得,
蓷 顥 題 詩 在 上 頭。
(Ý của 2 câu thơ là: trước mắt có cảnh trí rất hữu tình, nên thơ, nhưng ta không thể thốt nên lời (ngụ ý sáng tác thơ), vì đã có thần thi của Ngài Thôi Hiệu ở trên vách lầu này rồi).
Về sau, có lời bình: đó chẳng qua là Lý Trích Tiên tỏ ý nhúng nhường chăng ? hay để tỏ lòng trọng kính thiên tài thi phú của Thôi Hiệu ? cho nên Ngài Lý không dùng thần bút của mình để phác họa bức tranh thơ tại lầu này mà Ngài đi đến một nơi khác, nơi đó cũng có một tòa lầu, quang cảnh cũng tương tự như ngôi lầu bên đây, đoạn Ngài làm ra một bài thơ khác, bài thơ ấy được gọi là: Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài .
Có sách ghi lại rằng, Lý Trích Tiên đã dựa theo ý thơ của bài Hoàng Hạc Lầu mà làm thành bài: Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, (vì bài thơ của Lý Bạch, có những ý tường tương tợ như bài Hoàng Hạc lâu của Ngài Thôi Hiệu)
Dưới đây là chuyển ngữ 2 bài thơ Hoàng Hạc Lâu và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài của 2 thi hào Thôi Hiệu và Lý Thái Bạch:
Đây là nguyên tác Hán ngữ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:
黃 鶴 樓
昔 人 已 乘 黃 鶴 去,
此 地 空 餘 黃 鶴 樓。
黃 鶴 一 去 不 復 返,
白 雲 千 載 空 悠 悠。
晴 川 歷 歷 漢 陽 樹,
芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲。
日 暮 鄉 關 何 處 是,
煙 波 江 上 使 人 愁。
崔 顥
Và đây là nguyên tác Hán ngữ bài Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài của Lý Bạch:
登 金 陵 鳳 凰 台
鳳 凰 台 上 鳳 凰 游,
鳳 去 台 空 江 自 流。
吳 宮 花 草 埋 幽 徑,
晉 代 衣 冠 成 古 邱。
三 山 半 落 青 天 外,
二 水 中 分 白 鷺 洲。
總 為 浮 雲 能 蔽 日,
長 安 不 見 使 人 愁。
李白
Chuyển ngữ bài: Đăng Kim Lăng, Phụng Hoàng Đài
Phụng hoàng đài thượng phụng hoàng du,
Phụng khứ, đài không, giang tự lưu.
Ngô cung hoa thảo, mãi u kính,
Tấn đại y quan, thành cổ khưu.
Tam sơn bán lạc, thanh thiên ngoại,
Nhị thủy trung phân, bạch vũ châu.
Tổng vị phù vân năng tỵ nhật,
Trường An bất kiến, sử nhân sầu.
Diễn Nôm theo thể Đường Luật
Phụng hoàng chắp cánh đã bay đâu ?
Phụng vắng, lầu hoang, sông chảy sầu.
Hoa cỏ rường Ngô vùi nẻo thẳm,
Mão y nếp Tấn lấp đường sâu.
Trời xanh ba núi in trong bóng,
Nước bạc hai ngòi rẽ giữa châu.
Mây phủ giăng tầng che bóng ác,
Trường An mờ khuất, dạ thêm rầu.
Chuyển ngữ, dịch nôm, sưu tầm và biên soạn bởi Đông Thiên Triết
Ghi Chú: Phiên bản này đã có một số trang Web đăng tải vào năm 2000 và mới gần đây, vì
muốn được hoàn hảo hơn, tôi đã có cải biên lại phiên bản này, lúc đó vào năm 2015 và lần
kế là vào năm 2021.
Tài liệu tham khảo: Đường Thi Tam Bách Thủ, 唐 詩 三 百 首 nguyên bản Hán văn, do Tân Hoa
Thư Cục Đài Loan ấn loát và phát hành”. Wikipedia: Hoàng Hạc lâu – Wikipedia tiếng Việt
error: Content is protected !!