Thơ Lưu Trữ (Dòng Thơ Tiêu Biểu)

Dòng Thơ: Nguyễn Nhơn

TÔI LÀM THƠ
Tui từ nhỏ chí lớn
Cắt cổ không ra một câu thơ
Chỉ trừ có một lần
Khi học Đệ Tứ niên
Phải làm một bài lục bát
Nộp cho thầy chấm điểm
Tui còn nhớ bài thơ tả
Đôi giày mỏ vịt moccasin
Mốt thịnh hành thời đó
Ba cho tiền sắm diện Tết
Tui vốn dân làng quê
Chỉ muốn được thư thả
Thơ thẩn gì lại phải theo luật
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc
Đang khi thi hứng bay bỗng
Xỏ mủi dắt vô khuôn
Yến sỉ phi lý thuần ắt dong tuốt
Còn thơ thẩn nỗi gì?
Cho nên chẳng chịu làm thơ
Nói vè còn họa may
Khi viết cũng như nói
Chẳng niêm luật buộc ràng
Nào ngờ cũng biết mần thơ
Dzụ nầy là do nhà văn Võ Kỳ Điền
Gởi lại hai bài viết
Kể lể tâm tình nơi xứ Thủ ngày xưa
Nhớ cảnh cũ người xưa
Mới lần tay gõ phím
Từng câu từng câu hiện
Lòng cảm thấy ngậm ngùi
Bình Dương, Bình Dương của ai
Bài thơ trữ tình đầu tiên
Những vần thơ lã lướt
Những vần thơ bằng văn xuôi
BÌNH DƯƠNG, BÌNH DƯƠNG CỦA AI?
Trở lại chuyện BÌNH DƯƠNG một ngày. Cái công viên tàn tạ ngày nay. Một thời
yêu dấu của tuổi thơ. Chiều xuống Bà Nội dắt tay cháu. Ra VƯỜN BÔNG dạo mát.
Hột đậu rang của ông Tàu nhai nhóc nhách. Xâu mía ghim ngọt lịm que tre trắng
ngần. Rồi đến thời thanh thiếu. Tối tối mặc quần dài thay quần cụt. Đầu xức
brillantine. Ta lã lướt dạo chơi. Mắt lấm lét ngó các cô bạn nhỏ. Vườn bông lúc nầy
thành CÔNG VIÊN của ta.
Cái CẦU TÀU nửa nổi nửa chìm. Tuổi mười lăm mười sáu. Lấy cớ ngồi câu cá.
Lặng ngấm buổi chiều tà. Ánh nắng vàng rơi rụng bên kia sông. Để thấy lòng bâng
khuâng hiu quạnh. Rồi đến tuổi yên đương. Những đêm khuya thanh vắng. Cô đơn
nhìn dòng nước trôi trôi. Nước mắt buồn rơi rơi. Khi cuộc tình dang dở.
DÒNG SÔNG THỦ lặng lờ trôi. Chứng kiến bao thăng trầm. như chiếc cầu đổ quê
tôi. Đâu biết có một ngày. Có một đàn con nhỏ. Gạt nước mắt ra đi. Không bao giờ
trở lại.
Bình Dương, Bình Dương của ai? Của tuổi thơ vui thú. Tuổi thanh xuân phiêu bồng.
Bình Dương, Bình Dương của ai? Những cuộc tình mật ngọt. Những cuộc tình vỡ
tan.
Bình Dương, Bình Dương của ai? Xứ THỦ, QUÊ HƯƠNG tôi …

=================

Rồi tới THƠ NGANG HÔNG
Chiều Thu
Gánh cọ qua cầu lắt lay
“ Thương nhau, cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay “
Chén “sắn dzui” vừa xong
Cả đội tù K5 Tân Lập lên đường
Ra đồi cọ bên kia Bến Ngọc
Trẫy lá cọ về lợp trại mới cất
Đồi cọ bên kia vực thẩm
lúc chiều tà, đẹp hoang sơ
như cảnh sa mạc Châu Phi
Thanh đường rầy xe lửa lật ngang
vừa bàn chân đặt bước
bắc qua vực sâu, dài trăm thước
Thân tù ốm đói nhẹ bước
đong đưa như ngày tháng đong đưa
Bận về mới thật gian nan
Thân tù chỉ bốn chục kí
Gánh nặng oằn vai cũng tương đương
Chiều mùa thu mây mù giăng mắc
“Từng bước từng bước thầm”
Răng cắn chặt nén lại niềm sợ hãi
Gồng tay gầy giữ chặt gánh lá cọ lắt lay
Gió chiều thu đẩy nhịp bước đong đưa
Trên thanh sắt lắt lẽo qua vực thẩm
hồn lơ lững như mây trời lãng đãng
Vượt qua rồi ngoảnh nhìn lại, như mơ
Chiều thu gánh lá cọ
Nguyễn Nhơn

=================

Và cũng tập tểnh NHỮNG VẦN THƠ TỰ DO
ĐI TÙ VC
Đi tù vc Miền Nam
Tay không gở mìn bẩy
Mìn cá nhân, mìn cóc
Nhãy lên rồi nỗ chụp
Ai còn, ai mất?
Như lính thú đời xưa
Nước mắt như mưa
Bước chân xuống tàu
Hồng Hà như bầy súc vật
Ra Bắc, Hoàng Liên sơn
Thân tù đày, đói khổ và bịnh tật
Vô vọng, chẳng biết ngày về
Ngày về còn thảm thương hơn
Hết tù trong tới tù ngoài
Kinh tế mới, nhọc nhằn, đói khổ
Khổ vẫn hoàn khổ!
Cựu tù vc
Nguyễn Nhơn
On a chanté…les Parisiennes
Leur petits nez et leur chapeaux
Et bien que… les Américaines
Qui soient les souveraines
Du monde nouveau
On oublie tout
Sous le soleil de Mexico
On devient fou…

=================

NẮNG TRƯỜNG SƠN
Hai gã tù Miền Nam
Lầm lủi đẩy xe ba gát
Vượt qua dốc Phục Linh
Bận lên, ra sức đẩy
Bận xuống, cố sức trì
Bận lên, tù đẩy xe
Bận xuống, xe kéo tù
Vực sâu liền trước mắt
Thân tù có sá chi
Đêm về gã tù già
Áp mặt song cửa sắt
Phì phò thở, lên cơn xuyển
Gã tù trẻ trăn trở
Nhớ về dòng suối mát
Nơi quê nhà Bình Dương
Cội trăm già trĩu trái
Sắc tím, vị ngọt thanh
Thiêm thiếp giấc cô miêng
Chợt giựt mình thức tỉnh
Nắng Cali vàng rực rở
Mùa hè trên đất Mỹ
( Hè Cali nhớ hè Trường Sơn)
Nguyễn Nhơn

=================

BÈO GIẠT HOA TRÔI
Bèo nhỏ ở trong ao
Bèo lớn trôi trên sông
Lục bình, hoa tím đẹp
Giữa trời trăng, mây nước trôi
Trôi mãi chẳng biết về đâu?
Như phận gái bến nước mười hai
Trong nhờ, đục chịu!
Lục bình dòng sông Thủ
Lúc vận nước ngã nghiêng
Trôi giạt ra biển Đông
Vượt Thái Bình dương
Giạt vào dòng sông Mỹ
Chọn nơi đây làm quê hương
Khi lục bình nhớ dòng sông Thủ
Đọc câu Kinh Phật vỗ về:
“ Tam thiên, Đại thiên, Thế giới
Đâu không phải là NHÀ?”
Lục bình xứ Thủ
Nguyễn Nhơn

=================

THƠ LÀ GÌ?
Thơ tơ lơ mơ
TIẾNG MẸ RU
Từ bốn ngàn năm trước
Trên đất Lĩnh Nam
Mẹ Âu Cơ cất lời ru
Con ơi nhớ lấy lời nầy
Ta là giống Rồng Tiên
Dân Lạc Việt trồng “ Lúa nước “
Bên bờ Trường giang Dương Tử
Trôi giạt tới nơi đây
Bốn ngàn năm sau
Trên đất Miền Đông Nam bộ
Bà thác lời ru cháu
Nhắn gởi khuyên con gái
“ Con ơi chớ lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm ai bới tô trà ai dâng “
Hoặc nói gần nói xa
“ Có con mà gã chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho “
Nhưng mà con của mẹ
Vì duyên số lấy phải chồng xa
Từ đất gò Miền Đông
Lấy chồng về U Minh Miệt thứ
Nên mới cất lời than
“ Con gái mà lấy chồng xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu “
Có những buổi chiều tà
“ Chiều chiều ra đứng cửa sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều “
Cũng có khi
“ Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”
Đó là những gái hiếu thuận
Lại có những nàng thôn nữ
Con cháu Hồ Xuân Hương
Thuộc loại “ gái ngoan”
“ Không chồng có chửa mới ngoan
Có chồng có chửa thế gian sự thường “
Khăn gói theo người yêu
“ Ra đi là sự đánh liều
Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay “
Vì yêu nên phải sao cũng chịu
“ Một mai thiếp quyết theo chàng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam “
Ngày nay trên đất Mỹ
Một mảng Việt Nam trôi giạt
Ông cất lời ru cháu
“ Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẽo gập ghình khó đi
Khó đi khó đẩy về rẩy ăn cần
Về sông ăn cá về đồng ăn cua “
Tiếng mẹ Âu Cơ ru hờ
Từ bốn ngàn năm trước
Nay vẫn còn vẳng đưa
Nguyễn Nhơn
( Đực Làng Bưng Cầu Xứ Thủ Miền Đông )

=================

MÙA ĐÔNG HOÀNG LIÊN SƠN
Cuối Thu trên đất Mỹ, trời thấm lạnh
Nhớ về mùa Đông Hoàng Liên Sơn
Cuối tháng chạp, một chín bảy sáu
Hai ngàn “cải tạo viên” Miền Nam
Đáp tàu Hồng Hà ra Bắc “đi du học”
Trên sông Lòng Tàu, tàu trôi êm ả
Cửa biển Cần Giờ lướt qua lúc chiều buông
Một bạn tù lắc lư thổ huyết láng lay
Trên chiếc tàu sóng vùi, gió vập lúc đêm về
Trong âm u, bỗng hiện lên ánh hào quang
Quanh thân người tù nho nhã, hiền lành
Người tu sĩ thánh thiện Nguyễn Văn Thuận
Trong cõi mông lung, người tù thấy lòng êm ả
Mường tượng ánh sáng kia soi chiếu đường về
Đổ bộ Bãi Cháy, Hải Phòng
Sau ba ngày đêm lắt lay trên Biển Đông
Một nửa nhắm Cao Bằng, Lạng Sơn thẳng tiến
Một nửa rẻ về Tây Bắc Hoàng Liên Sơn
Trung tâm Cải tạo Trung ương số 1, Lào Kay
Mùa Đông năm ấy thật là khắc nghiệt
Ngày khổ sai trên đỉnh đồi gió lộng rét căm căm
Đêm về khí núi lạnh buốt xương, nhức óc
Suốt canh trường dựa cột ngồi run rẩy
Sức mỏn, hơi mòn, chợp mắt lúc tàn canh
Ngày tháng trôi qua biền biệt đến cuối Đông
Một buổi sáng, tỉnh giấc nhìn ra song cửa
Hoa bang nở rộ, trắng núi đồi
Mùa Xuân đến đem lại sức hồi sinh
Cửa tù mở, nhìn phía xa xa
Đỉnh Fansipan tuyết phủ, lắp lánh ánh thiều quang
Cụm mây trắng lững lờ trôi như tranh thủy mạc
Lòng người tù êm ả giữa ánh xuân quang
Nguyễn Nhơn

=================

MÙA ĐÔNG DƯỚI RẶNG TRƯỜNG SƠN
Mùa Đông Trường Sơn
Có nắng vàng hiu hắt
Tiếng tù ca ủ ê
“Suối A mai chảy dài ra Bến Ngọc
Đường ta đi qua Dốc Phục Linh
Đường ta đi, đường nghĩa, đường tình
Đường đi hạnh phúc, chúng mình đấp xây”(*)
Hạnh phúc nào đâu thấy
Những tang thương và tủi nhục
Của người thua trận ngậm ngùi
Đào đấp con lộ ngoằn ngoèo
Lượn quanh chân núi
Để xe trâu đưa đón
Những người vợ tù Miền Nam
Ngàn dặm tìm gặp mặt chồng
“Trèo đèo, vượt suối, sang sông
Gánh gạo nuôi chồng, nước mắt rơi rơi”(**)
Nhìn “những gót chân ngày xa xưa
Sợ lấm trong bùn khi mưa”(***)
Ngày nay đâu còn nữa
Chỉ còn những bàn chân chai sạn
Tảo tần nuôi bầy con nhỏ dại
Chắt chiu chút ít quà
Mỗi năm đôi lần
Gởi bù đắp cho chồng, tù nơi xa
Mùa Đông Trướng Sơn lạnh lắm
Chiếc áo ngự hàn năm cũ
Biết chồng có đủ ấm hay không?
Nguyễn Nhơn
(*) Thiếu tá Đạt, Tiểu khu Bình Tuy
(**) Thơ Bình Dương
(***) Nhạc: Tôi đưa em sang sông

=================

Xuân Hạ Thu Đông
Mùa Đông Hoàng Liên Sơn lạnh lắm
Tù Miền Nam lạnh bất kham
Lạnh buốt óc, nhức tim
Suốt đêm trường ngồi tựa cột run rẩy
Mơ màng thiêm thiếp lúc tàn canh
Đỉnh Fansipan tuyết trắng một màu

Mùa Xuân tới

Hoa ban nở trắng khắp núi đồi
Lòng người tù rạng rỡ
Đi vào cõi Thiền
Quên hết đói lạnh, vong thân
Mùa hè Trường Sơn nóng cháy thịt
Cột kèo tre nứa nổ bom bóp
Gió lào thổi qua khe núi như thổi lửa
Người tù già hen suyễn tựa song sắt thở phì phò
Gã tù trẻ trăn trở mơ màng
Quê nhà Miền Nam, một Thầy Thơ trong vắt
Cội trâm già trĩu trái, sắc tím ngắt, vị ngọt ngào

Mùa Thu Trường Sơn trời u ám

Dòng suối A Mai dịu dàng róc rách
Xuôi dòng ra Bến Ngọc
Buổi chiều tà nắng vàng hoi hóp
Khói cơm chiều nhà ai vờn mái rạ
Gã tù trẻ thê thiết nhớ nhà
Nguyễn Nhơn

Leave a Reply

error: Content is protected !!