Tùy Bút 1

Mùa Xuân Của Thi Nhân

Tùy Bút
        Bàn đến mùa màng thì nó gồm có tứ quý (四季) bốn mùa, Xuân, Hạ Thu Đông (春夏秋冬) mà nói theo chữ Hán thì gọi là  “xuân quý”.
        Xuân quý (春季) tức là khí tiết mùa xuân hay gọi nôm na là thời tiết của mùa xuân, thiết nghĩ cũng nên đề cập sơ qua Dịch Kinh của người Hoa vì nó có liên quan đến mùa màng.
        Theo Kinh Dịch Trung Hoa thì bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, là bốn hình sắc của Tứ Tượng, nó thể hiện qua sự thịnh, suy của bốn thời kỳ: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
        Dịch đã chứng minh vào thời kỳ “Nguyên” thì hai cực: âm, dương, được trùng phùng một cách hài hòa cùng vạn vật trong vũ trụ. Do đó, khí hậu lúc này trở nên ấm áp, cây cỏ, hoa lá nhờ đó mà đâm chồi nẩy lộc, tô điểm thêm phong sắc vui tươi trong đất trời, cho nên Dịch học bảo rằng đó chính là: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (同聲相應,同氣相求).
        Dịch cũng chứng minh rằng: “Thành, Thịnh, Suy, Hủy” là do tự nhiên của trời đất, mà giai đoạn “Thành” là tiêu biểu của mùa Xuân, được biểu hiệu qua quẻ Địa Thiên Thái (地 天 泰), tức là thời kỳ Thái Hòa của trời đất, nhờ có tiết Vũ Thủy, cho nên khí hậu ôn hòa bắt đầu vào tháng “Dần” tức là tháng Giêng, đó cũng là thời kỳ khởi điểm của đầu mùa xuân cho đến cuối tháng ba (âm lịch) trong năm.
        Sự hài hòa trên bình diện khí hậu ôn nhiệt, nên mùa xuân đã mang đến an vui, hạnh phúc, cho nhân loại và nó cũng là hấp lực tiềm tàng trong nguồn cảm hứng của các thi nhân.
        Do đó, hồn thơ của các thi nhân nhìn thấy bóng dáng nàng xuân thấp thoáng trong chén rượu hương nồng cho nên mới thả hồn thơ vào chung rượu để cùng sánh bước với giai nhân, rồi từ đó hồn thơ với nguồn cảm hứng đã tích lũy thành những sáng tác dồi dào, kết thành những vần thơ đầy ý vị.
        Những cảnh sắc hữu tình của mùa xuân, thiết nghĩ theo nhãn quan của các thi nhân, thì đó là sắc thái mỹ lệ của đời sống về mặt tinh thần, vì thế mà họ đã mô phỏng sắc thái của mùa xuân, hòa điệp cùng những đặc tính tượng trưng cho cái thiên tư, mỹ miều, song song với vẻ đẹp lộng lẫy của nàng thiếu nữ, qua những câu ca dao bình dân rất trữ tình hay có lúc rất lãng mạng được thể hiện với nhiều thể loại thi ca khác nhau.
         Do đó mà trong nhân gian thường có câu nói: “Mùa xuân là mùa của thi nhân” chăng?
        Xem trong truyện Kim Vân Kiều, qua bút pháp điêu luyện của cụ Nguyễn Du cho ta thấy, cụ đã miêu tả sắc đẹp diễm lệ của nàng Vương Thúy Kiều, đẹp đến nỗi khiến cây cỏ, hoa lá là vật vô tri giác mà cũng biết hờn ghen với nàng:
                      Làn thu thủy, nét xuân sơn,
                      Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh….
        Và Cụ cũng nhờ mùa xuân phơi bày tuổi thanh xuân của Thúy Kiều:
                      Phong lưu rất mực hồng quần,
                      Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê….
         Xưa nay, trong cổ ngữ có câu: Xuân bất tái lai (春不再來), Mùa xuân không trở lại nữa, vì thế mà thiên hạ thảy đều trân quý mùa xuân và cho rằng Xuân Tiêu Nhất Khắc Trị Thiên Kim (春宵一刻值千金) : Đêm xuân đáng giá ngàn vàng, tuy nhiên nghĩ theo nghĩa bóng thì: “xuân tiêu” là hàm ý của sự ân ái giữa nam nữ trong những đêm xuân nồng ấm.
Nhắc đến mùa xuân thì chợt nhớ đến bài thơ bất hủ của thi hào Tô Đông Pha qua bài (Xuân Tiêu)<春宵>:  春宵一刻值千金,花有清香月有陰。歌管樓台聲細細,鞦韆院落夜沉沉”
                      Xuân Tiêu:
                     Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim,
                     Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm.
                     Ca quản lâu đài thanh tế tế,
                     Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm.
                     Phỏng dịch:
                     Ngàn vàng một khắc giá xuân tiêu,
                     Bóng nguyệt đùa hoa dáng mỹ miều
                     Sáo nhạc tấu hòa nghe thánh thoát.
                     Võng đưa đêm xuống thật yêu kiều.
         Dài dòng đến đây thì cũng chợt nhớ đến truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du, hình như Cụ lúc nào cũng luyến tiếc tuổi thanh xuân, cho nên Cụ đã nằm mơ thấy bóng dáng nàng Xuân:
                     Đêm xuân một giấc mơ màng,
                     Ngày xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng.
        Rồi Cụ thách thức với các tay họa sĩ nào mà đã vẽ nên một bức gấm tranh xuân nữ tài tình như sau:
                     Vẽ chi một đóa hoa đào?
                     Vườn hồng ai dám ngăn rào chim xanh?
        Trên đây, cho ta thấy cái thi vị của nguồn thơ được lồng trong tình tiết của mùa xuân tươi thắm và… nào, chúng ta hãy thử hòa hợp cùng với nàng xuân xem sao, rồi để thấy trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của cụ Nguyễn Gia Thiều, qua giọng thơ phong lưu hứng tình hơn, khi mà:
                      Vườn xuân bướm hãy còn rào,
                      Thấy hoa mà chả lối vào tìm hương.
        Rõ là mùa xuân là mùa của các thi nhân chăng? Bởi do mùa xuân đã mang đến những cảm hứng quyện lấy hồn thơ, tuy cái thi vị trong các thi phẩm có khác nhau do thi hứng của mỗi người, được bộc lộ qua những câu ca dao ngắn gọn, với nghệ thuật tả cảnh, tả tình, trau chuốt nàng xuân trong cái óng ả của tia nắng ấm, trong cái thướt tha mượt mà của hoa lá xanh tươi lúc ban mai, trong cái mỹ miều yêu dấu, dành cho người tình bé bỏng, hoặc trong cái cung cách trang trọng hơn, để bày tỏ nỗi lòng đối với tổ quốc, quê hương và dân tộc.
         Những tình khúc tuyệt vời của thi nhân cũng được các nhạc sĩ phổ thành những bản nhạc trữ tình, những âm điệu du dương, lúc trầm thì nghe rung cảm, đắm say lòng người, làm rộn ràng con tim, nhưng lúc bổng thì hùng hồn tựa như tiếng trống thúc quân ra sa trường, khiến người nghe có cảm giác như hân hoan như yêu đời mà phải hồi tưởng về dĩ vãng, rồi nuối tiếc tuổi thanh xuân của chính mình, chỉ một thoáng đó mà nó đã trôi qua quá nhanh mất.
        Những chứng minh trên đây cho ta thấy rằng: Nàng xuân đã  đến với thi nhân, trong một khung cảnh hài hòa của cây cỏ, hoa lá, chim chóc, núi thẩm, rừng xanh, và nơi đây, là nơi của những vùng trời TỰ DO, trên những miền đất DÂN CHỦ thì mới tìm thấy những sắc thái của mùa xuân tươi mát trong lành này.
        Nhưng ngược lại, những dòng thương tâm dưới đây, chẳng biết chúng ta có nên bày tỏ với nàng xuân vì những đau xót, mất mác, tang tóc trong mùa xuân Mậu Thân 1968 và 1975 chăng?
        Hay phải ôm nỗi niềm trách hận nàng xuân ? vì nàng xuân cũng đã đến với thi nhân trên cái “Thiên đường quỷ đỏ”, nơi cái “Đỉnh cao trí tuệ”, nơi mà nàng xuân đã nhiều lần, “có lẽ nàng bị gượng đến” trong bối cảnh của nỗi giận hờn, trong suối lệ, tóc tang dẫy đầy máu xương chồng chất lên hình hài gầy yếu và héo úa của nàng xuân trên quê hương chúng ta.
         Nói bóng bảy, lung khởi, chẳng qua xin nói một cách trực khởi rằng: Những nỗi đoạn trường, đau thương mà dân tộc Việt Nam đã đeo mang, gánh gồng như những cảnh máu đổ, thịt rơi của đầu mùa xuân Mậu Thân năm 1968. Đó chẳng phải là một bằng chứng cụ thể của cái mùa xuân tang tóc, máu đổ, thịt rơi trên quê hương của chúng ta?
        Quay ngược lại khúc phim trong thời chinh chiến, đảng cầm quyền Cộng Sản luôn luôn áp dụng chính sách ngu dân như: che dấu những xấu xa, bỉ ổi, lường gạt, phĩnh lừa dưới nhiều dạng thức để kích động lòng ái quốc của nhân dân miền bắc. Trong khi ấy, một thiểu số dân miềm Nam nhẹ dạ cũng tin nghe theo lời kêu gọi của đảng và Bác: hãy đứng lên chống Mỹ cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm để giải phóng cho nhân dân miền nam đang bị bọn “đế quốc Mỹ, ngụy” bắt làm nô lệ”.
        Nhưng sau ngày 30/4/75 thì nhân dân khắp nước, từ Bắc chí Nam, họ đều “phải bị” trở thành nô lệ cho đảng CSVN, cái nô lệ hiện giờ so với cái nô lệ trước kia của “đế quốc Mỹ, Ngụy” thì nó tệ bạc hơn gấp trăm ngàn lần. Thôi thì xin hãy để yên cho dân chúng thấp cổ bé miệng được làm nô lệ cho “đế quốc Mỹ, ngụy”, thiết nghĩ, họ sẽ được dễ thở hơn khi bị làm nô lệ cho lũ chóp bu Bắc Bộ Phủ CSVN hiện giờ.
Xuân Canh Thìn 1999
ĐôngThiênTriết

Leave a Reply

error: Content is protected !!