Thơ Lưu Trữ (Dòng Thơ Tiêu Biểu)

Dòng Thơ: Hà Thượng Nhân

Thơ Cụ Hà Viết Tặng Đông Thiên Triết

Message của Tố Nguyên gửi ngày 03 tháng 09 – 2004:
Đông Thiên Triết mến!
Tố Nguyên nhận được bài thơ của Cụ Hà Chưởng Môn,
(bài thơ Cụ viết bằng tay) giao cho tôi, nhờ tôi đánh máy
lại và chuyển đến Huynh, và Cụ nói: đặc biệt Cụ viết tặng
riêng cho thi huynh ĐTT:
Tố Nguyên
Bài xướng,
Hà Cảm Ơn Bạn:
CẢM tình bạn chúc thọ ninh khang,
ƠN ấy xin ghi vội mấy hàng.
THI Sách mừng còn Trên Đất Hứa,
HỮU Duyên gặp ở Lũng Hoa Vàng.
ĐÔNG Tây Kim Cổ ngàn lời viết,         
THIÊN Địa Nhân Hòa một tiếng vang.  
TRIẾT Thuyết Tình Chu từng được học,
HÀ đâu dám phụ kẻ cùng làng.
Hà Thượng Nhân 03/09/2004

—————————————————

Kính Cụ Hà Chưởng Môn,
Thiên Triết rất lấy làm vinh hạnh được Cụ Hà Chưởng Môn đã ưu ái đề thơ tặng.
Xin cảm ơn tấm lòng vàng của Cụ, cho nên vội đề vài câu kính phụng
họa bài thơ
“Khoán Thủ” qua bút pháp điêu luyện của Cụ gửi tặng cho vãn bối.
Nếu có điều chi sơ suất hay thất thố, xin Cụ rộng lòng hỉ xả và chỉ giáo và không quên
cảm ơn bác Tố Nguyên đã chuyển bài thơ do Cụ
Hà đề tặng.
Trọng kính:
ĐTT
Bài Họa,
PHÚC THƯ :
(Kính Phụng Họa Bài Khoán Thủ của Cụ Hà, viết tặng ĐTT)
PHÚC Trời ban, chúc Cụ an khang,
THƯ Thất Ngôn tuy chỉ tám hàng.
CẢM nghĩa can trường đường kiếm thép,
TẠ tình khiêm tốn tấm lòng vàng.
 gia Văn Bút danh lừng lẫy,
QUÂN sử Cộng Hòa tiếng vẻ vang.
ƯU điểm phú thi đầy nội lực,
ÁI Nhân, Trí, Dũng, giáp thôn làng.
ĐôngThiênTriết. Sep/05/2004

=================================================================

Hà Thượng Nhân viết cho Hữu Loan

(*) là một Nghĩa Sĩ thất chí, tác giả bài thơ Đường, viết theo chữ Hán, khá nổi tiếng:

Thế sự du du nại lão hà.

Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.

(Viết Cho Hữu Loan)
Trán cao tóc xù
Trai Quảng Bình trong quán phở chiến khu.
Đập bàn tắt đèn, thét săn tay áo:
Thằng Ái Mỹ-Lộc bắn thằng Kỳ Hoàng Lão (1).
Nguyễn Hữu Loan!
Hồn nhiên như con trẻ,
Đơn sơ như miệng cười,
Dám chân thành làm một con người.
Giữa bão tố quyết không là cây sậy.
Chỉ biết cúi đầu vâng lời lẽ phải,
Với bạn bè gìn giữ thủy chung (2).
Đỗ Phủ xưa dù lớn vô cùng,
Nguyễn Hữu Loan không chịu là Đỗ Phủ (3),
Ba mươi mấy năm chân trần lam lũ,
– Đói không Loan?
– Khổ không Loan?
– Tao chẳng khổ bao giờ,
Tao đi cày như tao làm thơ,
– Mày đi cày vì mày dám làm thơ.
Thơ vĩ đại vì thơ không đánh đĩ.
Bọn dối trá chẳng thể là thi sĩ,
Kiệt Trụ đừng nói chuyện thi ca.
Nhớ Nguyễn Du rau cháo xanh da,
Nửa tháng ốm không có tiền mua thuốc,
Không cần thép, thơ vẫn là bó đuốc.
Thơ nâng người cao sát với thần linh,
Tiếng chim nào lảnh lót giữa bình minh.
Đêm thu quạnh, bến Tầm Dương đưa khách,
Trên ngàn năm tưởng như bờ lau lách,
Của người xưa vang vọng mãi đâu đây.
Loan ơi Loan! Khi mày rít điếu cày,
Đội nón lá, bạn mấy người áo ngắn.
Tầm thường thế mà khắp nơi bàn tán,
Súng làm chi? Sắt thép để làm chi?
Chiều hôm nay trải chiếu cạnh đường đi,
Nâng chén rượu nhắc nhau câu sách cổ,
Cung điện lớn cũng là ngày sắp đổ,
Nhưng văn chương vạch mặt lũ gian tà,
Uy quyền nào khuất phục nổi lòng ta?
Mày nói đúng: Chúng mình đều lớn tuổi,
Nhưng chẳng chịu quay lưng vào Lẽ Phải,
Vẫn say mê như thuở ấy đầu xanh.
Bốn mươi hai năm! Mình gặp lại mình,
Tao vẫn thế, té ra mày vẫn thế,
Coi thủ đoạn như những trò con trẻ,
Lấy chân thành làm võ khí vô song.
Mày tìm gặp tao – thật cũng lạ lùng!
Khi nhận biết cười không còn nước mắt,
Tao nhìn mày thương thì thương thật,
Nhưng lòng tao hãnh diện lắm Loan ơi!
“Không làm nhà vì tôi bận làm người, (4)
“Phú quý bất năng dâm,
Bần tiện bất năng di,
Uy vũ bất năng khuất”, (5)
Bạc vàng gì cũng mất,
Nhưng làm sao mất được niềm tin?.
Tao gặp mày khỏi phải giữ gìn,
Nửa thế kỷ tin nhau là bạn,
Rượu đế xoàng thôi – nâng ly uống cạn,
Con tôm khô nhắc lại thú quê hương.
Tao ước một ngày về tận Vân Hoàn, (6)
Ra vườn trước bẻ bắp ngô vào nướng,
Rồi tao nhắc những bạn bè thuở trước,
Những chiếc xe con, những bộ com-lê,
Những phấn, những son Rượu thịt ê hề,
Chúng nó chết từ lâu mày ạ!
Chúng nó chết thì có gì là lạ?
Chết vì quên nồi cháo lá khoai lang,
Mày uống đi! Nửa thế kỷ kinh hoàng,
Vẫn còn lại người giao liên Ban Thống, (7)
Ban Thống gần như thất học,
Nhưng người nào có học hơn anh?,
Mày về Nga Sơn (8) thân thích quay mình,
Đỗ Hữu Thống dám về thăm thủ trưởng,
Dám công khai tán thưởng,
Dám coi thường thép súng bao vây.
Lên rừng xanh (9) có sắn cho mày,
Giữa thiện ác bày hai thế trận,
“Náo thị, u lâm mạc luận,
Cổ kim cao hữu năng tầm”, (10)
Thế cho nên từ Bắc vào Nam,
Bặt tin tức ta vẫn còn gặp lại.
Ta không uống để quên,
Mà uống để nhớ sầu vạn đại,
Như để nhìn – để nhớ bạn bè ta,
Có phải không? Nếu không có phong ba,
Thì cây lớn với cỏ hèn cũng vậy,
Thời đại ta hào hùng như thế đấy,
Mày tưởng đâu tao đã hết làm thơ,
Hú hí vợ con, thừa mứa sữa bơ,
Lại kênh kiệu tập làm trưởng giả,
Chúa Giê-Su đầu thai trong máng cỏ,
Phật Thích Ca từ bỏ cả ngai vàng,
Bàn tay không mà lại có Thiên Đàng!.
Ta còn nhớ mãi,
Trên đỉnh Hoàng Liên Sơn có cây mai cỗi,
Mọc lơ thơ ngạo nghễ mấy bông vàng,
Mày trở về làng,
Không lẻ loi đơn độc,
Mày vào Đà Lạt,
Có người con gái ôm hôn rồi khóc.
Mày vào Sài Gòn,
Nhiều kẻ không quen,
Nghe nói đến con người “độc đáo”, (11)
Thiếu quần, thiếu áo,
Tìm thăm thân thiết hân hoan,
Nguyễn Hữu Loan.
Hà Thượng Nhân
(1) Trích bài Quách Xuân Kỳ của Nguyễn Hữu Loan, phản ảnh trung
thực con người Nguyễn Hữu Loan: đơn xơ, xù xì, quyết liệt.
(2) Gia đình tôi địa chủ, đang đi phát động đấu tố, Nguyễn Hữu Loan
nấu cơm khoai, đi bộ 20 cây số vào thăm cha mẹ tôi.
(3) Xuân Diệu đọc bài Đèo Cả nói với anh em: “Nguyễn Hữu Loan
là Đỗ Phủ của thời đại”.
(4) Một người bạn hỏi sao không nhà, Nguyễn Hữu Loan
trả lời: “Tôi bận làm người nên chưa có thì giờ làm nhà”.
(5) Giàu sang không làm say đắm. Nghèo hèn không làm đổi thay.
Uy quyền không thể làm mình khuất phục.
(6) Tên làng Nguyễn Hữu Loan
(7) Ban là con đầu lòng của Đỗ Hữu Thống, cán bộ
giao liên của Nguyễn Hữu Loan. Thanh Hóa có tục kiêng tên.
Lớn tuổi gọi tên con. Nếu có 2, 3 người cùng tên, ghép tên hai
cha con làm một.
(8) Tên huyện của Nguyễn Hữu Loan
(9) Đỗ Hữu Thống định cư vùng kinh tế mới thuộc Cẩm Thủy.
(10) Đây là một vế của câu đối bằng chữ Hán,
Nguyễn Hữu Loan tặng Ban Thống: “Chẳng kể chỗ chợ búa ồn
ào hay chốn rừng sâu u tịch, xưa nay những người bạn lớn vẫn
thường tìm gặp nhau”.
(11) Nhại danh từ của Nguyễn Hữu Loan đã dùng trong bài
thơ Màu Tím Hoa Sim (Nàng cười xinh xinh bên an
h chồng độc đáo).
*****************************************
Thư Gửi Bằng Hữu
KÍNH THƯA BẰNG HỮU CHƯ HUYNH ĐỆ
Kính thưa bằng hữu chư huynh đệ
Tôi viết bài thơ gởi Tố Nguyên
Nhờ đánh máy dùm tình thúc phụ
Nào ngờ lên NET gởi huyên thuyên
oOo
Bằng hữu từ ông Đỗ thuở xưa
Đến ông Ngô Phủ mới quen giờ
Viết văn cứng cựa như ông Đáng
Bác Diệu Tần thơ thật bất ngờ
oOo
Bạn gần đã vậy xa tìm đến
Cảm kích lòng tôi khó nói năng
Thôi cứ lấy thơ mà tạ bạn
Gần xa liệu có hiểu cho chăng
oOo
Xin khất Ý Nga khất mọi người
Bao giờ bình phục vỗ tay cười
Được thơ bè bạn tôi xin họa
Dù dở dù hay chẳng dám lười
Trân trọng
San Jose, ngày 31 tháng 8 năm 2004
Hà Thượng Nhân
Men Thu I
Nhớ Ðà Lạt ngậm ngùi cay đắng,
Từ ngàn năm mây trắng còn bay.
Ngàn năm vẫn tấm lòng này,
Mà sao trang sách thêm dày dặn thơ ?
Nhớ cô bé trước tờ giấy mới,
Nét mực xanh phơi phới ân tình
Trước song ai đứng một mình ?
Bên kia con dốc có hình bóng ai ?
Ðêm thao thức, thức hoài chẳng ngủ,
Nói là yêu, chưa đủ là yêu,
Ðứng ngồi, thôi sớm lại chiều,
Ngày xưa đãy gấm khăn điều vắt vai.
Hạt mưa nhỏ đường dài vô tận
Nghĩ đến người, vừa giận vừa thương.
Tại sao lại đứng bên đường ,
Tại sao thư viết lại vương trước nhà ?
Tại sao để người ta trông đợi,
Trong tấc gang vời vợi ngàn trùng !
Chao ơi ! Thương đến vô cùng,
Làm sao nói hết nhớ nhung hở người ?
Dù muốn khóc, vẫn cười giả lả,
Thiếu một người tất cả đều dư
Trời ơi chỉ mấy trang thư,
Mà sao nước mắt tuôn như thế này ?
Yêu là thế, đắng cay là thế,
Bỗng từ đâu một kẻ giữa đường,
Chưa hề nói đến yêu thương,
Mà rồi chung gối, chung giường chung chăn.
Cuộc duyên nợ bảy năm ngắn ngủi,
Buồn riêng ai, mà tủi riêng ai ?
Hồn người bên dưới tuyền đài,
Thấu chăng giọt lệ ngắn dài thâu canh,
Ðành uổng cả ngày xanh, tuổi trẻ,
Ly rượu buồn san sẻ riêng ta.
Thơ như máu, lệ mình pha,
Cửa thiền khép, mở cũng là riêng tư !
Thôi chân giả thực hư cũng một,
Ta ơi ta ! Dại dột chưa ta!
Vừa gần đã tưởng như xa,
Vừa qua đã tưởng như là cố nhân!
Khi Tổ Quốc muôn phần nguy khốn,
Yêu Quê Hương mà trốn Quê Hương .
Tự do chỉ có một đường,
Bốn phương chỉ có một phương thanh bình!
Liều má phấn lênh đênh biển cả,
Bao hãi hùng khó tả thành thơ.
Thương Kiều chân vướng bùn nhơ,
“ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ”
Thân lưu lạc bắt đầu làm lại,
Chữ văn chương trót dại đa mang,
Nhưng rồi tất cả dở dang,
Trọng nhau càng trọng lại càng phải xa.
Con thơ dại tạm đà thành đạt
Ngẫm cuộc đời như hạt sương mai.
Thì về vun chậu bonsai,
Nuôi con anh vũ, gây vài cụm lan
Có cành liễu trước làn gió lạnh,
Có bông quỳnh hiu quạnh đêm trăng.
Có trong ly rượu bất bằng,
Chuyện nay lại cứ tưởng rằng chuyện xưa.
Có hoa dại xuân vừa chớm nở,
Có cỏ xanh hớn hở đường chiều.
Có người đãy gấm khăn điều,
Vắt vai thấy có rất nhiều thi ca.
Người sóng nước vào ra thư thái,
Sao lời thơ tê tái canh trường ?
Muốn thương mà chẳng dám thương,
Muốn yêu mà lại như dường ngẩn ngơ.
Rót ly rượu bất ngờ ướm hỏi,
Người nhìn ta vời vợi xa xăm.
Ðâu vì một chút tiếng tăm ?
Hình như duyên nợ ngàn năm vẫn chờ !
Ôi ! Vườn Nhật bây giờ mới biết,
Lòng chúng mình tha thiết vì nhau.
Chia nhau chung một nỗi đau,
Nắm tay chung một mối sầu cổ kim.
Tưởng tri kỷ chỉ tìm, khó thấy,
Một cuộc đời biết mấy nắng mưa.
Hỏi anh, anh đã hiểu chưa ?
Hỏi em, em tóc cũng vừa chớm xuân.
Lại cứ rót mấy tuần rượu chát,
Lại vì nhau bát ngát thơ xanh,
Và em, và nữa lại anh,
Bỗng dưng ta lại hóa thành trẻ thơ.
Nhớ từng phút, ngẩn ngơ từng phút,
Mỗi chia tay heo hút đường về.
Chưa từng thốt một lời thề,
Suối tương tư ấy đã kề cạnh ta.
Em nếu trước vốn là tiên nữ,
Thấy trần gian còn chữ yêu thương.
Ta từ nửa kiếp tơ vương,
Thử liều sợi chỉ văn chương buộc mình.
Mây hết trắng lại xanh man mác,
Giọt sương trong lác đác vườn hoa.
Ngọc lan em ngắt tặng ta,
Nửa đêm sực tỉnh thiết tha nhớ người.
Người phone lại, người cười, người nhắc
Một trăm câu hứa chắc nghe anh,
Trăm câu với tấm lòng thành
Ðêm nay mộng hẳn là xanh bất ngờ !
Men Thu II
Tết rồi ! Lại tết rồi đây,
một trăm câu giống lần say hôm nào !
thơ ta như nước tuôn trào,
lưng trời đổ xuống ào ào tưởng mưa.
Ta say đó ! Hay chưa say nhỉ ?
say không say thực chỉ tại mình.
hoa lê trắng điểm mấy cành ?
mặt hoa nào nép cho anh nhớ nàng ?
Truyện Kiều cũ lại mang ra đọc,
chữ tài tình ai học dùm ai ?
đó đây đường sá bao dài ?
núi sông mấy đoạn cõi ngoài mấy xuân ?
Với tay rót một tuần rượu nhạt,
cơn gió nào rào rạt ngoài sân ?
ngày xưa họ Lý cởi trần,
múa thanh kiếm gỗ thay vần thơ say.
Muốn bắt chước thả bay theo gió,
những vần thơ tưởng có mà không.
có ư ? Giữa khoảng mênh mông,
rượu chưa đủ để cho nồng tình xuân.
Tự nhiên nhớ vầng trăng năm ấy,
tự nhiên thương nắng cháy đường mòn.
ơ hay ! Trên lối cỏ non,
vó câu người cũ có còn tuyết in?
Sao đau mãi nỗi niềm nhân thế ?
ôi nương dâu bãi bể sự thường.
thì ngay giữa chốn nhiễu nhương,
sao chưa vẽ chữ yêu thương dùm mình ?
Xuân lại tới thình lình Xuân tới,
Xuân muốn say cùng với ta chăng ?
rượu chưa đủ ngấm chân răng,
lại nghe lá đổ tưởng rằng trời mưa !
Nhìn giọt nắng nghĩ trưa quá trễ,
khó như ai ngạo nghễ: rằng ta,
ngang tàng bướng bỉnh từ xưa,
đoạn trường thử chiếm vài tờ mà chơi.
Không thể được ! Cuộc đời còn bạn,
lại vẫn còn muôn vạn tri âm.
cớ chi giữa chốn cát lầm,
hơn nhau chỉ một chữ Tâm chân thành…
Xuân không có cây xanh cỏ biếc,
nhớ quê nhà tha thiết từng cơn.
rượu say còn biết gì hơn ?
biết rằng ở đó Giang Sơn còn người.
Giữa xiềng xích vẫn cười ngạo nghễ,
Hà Sĩ Phu là kẻ nào đây ?
gặp người ta sẽ nắm tay,
Kinh Kha hồ dễ một ngày hơn anh !
Không cần biết mắt xanh, mắt trắng,
càng đói nghèo, cay đắng càng cao.
xưa nay những bậc anh hào,
đếm xem thử có kẻ nào giàu sang ?
Uống đi bạn, Xuân đang trước cửa,
nghe đất trời sắp sửa bàn giao.
bạn thơ chẳng hiểu tại sao
đòi trăm câu để xếp vào trang Xuân,
Bạn thơ ạ ! Trầm luân chẳng mỏi,
thì trăm câu thử hỏi bao dài ?
ngày Xuân, muốn uống cùng ai,
làm sao đáy chén ngấm vài giọt sương ?
Ừ ra lẽ đoạn trường có thực,
nhớ ngày xưa Từ Thức lên tiên,
khi về cởi áo trước hiên,
bỗng thành người lạ ở miền thế gian !
Ta gõ chén, xô bàn mà hỏi:
khoảng trăm năm trong cõi ta bà,
mùa Xuân cùng với cỏ hoa,
sao không cứ mãi là ta, là mình ?
Sao sông núi lại thành cách trở ?
sao nắng mưa dang dở ngày đêm ?
sao đường lại cứ dài thêm ?
tại sao gió cứ bên thềm quẩn quanh ?
Ô ! Tri kỷ đã thành cổ tích !
ô ! Thơ ta có ích gì đây ?
mùi hoa nào đó thoảng bay
tưởng như hương sắc những ngày đã qua !
Xuân ! Xuân đó ! Xuân ta ! Xuân bạn !
ta mời ta hãy cạn chén này.
chúc nhau gì giữa cơn say,
chúc thơ như gió, như mây giữa trời.
Lúc muốn đến, chẳng mời cũng đến,
lúc muốn đi quyến luyến cũng đi.
chúc cho trước chén nhâm nhi,
gật gù: vẫn có Tử Kỳ, Bá Nha
Gần cũng có mà xa cũng có,
bạn của ta đây đó vô vàn,
dẫu không lớp lớp hàng hàng,
cũng thừa để viết trăm dòng tạ nhau .
Ngàn năm trước Giang Châu Tư Mã,
nghe tiếng đàn lã chã châu rơi.
truyện Kiều còn mãi với đời,
phải chăng cũng có cuộc chơi đáng tiền ?
Vậy thì hãy vì duyên bút mực,
thơ dù say thưởng thức dùm nhau !
hãy khen đủ một trăm câu,
người và ta vẫn trước sau một nòi
Ta đã viết giờ đòi người đó,
đòi tám câu cho có văn chương.
chẳng cần cứ phải luật Ðường,
miễn là vẫn đậm mùi hương Xuân nào !

Leave a Reply